Cách Tân Về Hình Thức (Hình Thức Biểu Hiện)

... Có người bảo rằng: Thế Lữ là một người sống một cách rụt rè ấy rất hợp với bài thơ "tiên" nhưng lại rất hại cho những bài thơ "phàm", những bài thơ cần đưa lại cho người ta những phút đắm đuối [28].

Như thế, khi Thế Lữ "lưu luyến cảnh tiên trong tưởng tượng" hay "nói chuyện tiên" thì đấy cũng chính là dấu hiệu đam mê mà chỉ có thi sĩ lãng mạn với phóng hồn mình một cách thành thực đắm say tới miền mộng đẹp của tưởng tượng ấy. Thế giới Bồng lai tiên cảnh được Thế Lữ tạo ra như "một thế giới nghệ thuật hoàn toàn mới, ở đó cõi thực và cõi tiên liên hệ với nhau, gắn kết với nhau bằng tình yêu mang sắc thái riêng của thi nhân" (Phan Trọng Thưởng) [54]

Đến với cõi tiên - một mặt Thế Lữ tạo ra thế giới nghệ thuật riêng, đồng thời thi nhân cũng bộc lộ được cảm xúc thẩm mĩ của mình mang dấu ấn cái "tôi" riêng biệt.

Trước hết, cõi tiên trong thơ Thế Lữ là một không gian trong lành, tinh khiết và thơ mộng. Ở đây không có vẻ đẹp huyền bí mê hoặc lòng người, sự ngất ngây hướng về khoảng vọng tươi sáng nơi tiên giới.

"Ánh xuân lướt cỏ xanh tươi

Bên rừng thổi sáo một hai kim đồng Tiếng đưa hiu hắt bên lòng

Buồn ơi! Xa vắng mênh mông là buồn"

Trước không gian xa vắng mênh mông ta cảm nhận được ở đó tiếng tơ lòng ngân rung trong cảm giác êm ái, xao xuyến thật dịu, thật trong của một tâm hồn bình tĩnh, than thản như chưa gợn đục nỗi sầu nhân thế.

Trong tập Mấy vần thơ - Thế Lữ đưa người đọc đến với cõi tiên thật trong trẻo, tinh khiết, đến với cõi đi về gần gũi và cũng thật mơ màng siêu thoát. Tiêu biểu: Tiếng trúc tuyệt vời, Tiếng sáo thiên thai, Hoa Thuỷ tiên,

Vẻ đẹp thoáng qua... Sự hấp dẫn cõi tiên còn phảng phất mơ màng và ám ảnh hồn thơ Thế Lữ trong khá nhiều thi phẩm của toàn tập thơ ông như Tiếng gọi bên sông, Lựa tiếng đàn, Lời than thở của nàng Mỹ thuật, Cây đàn muôn điệu....

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 148 trang tài liệu này.

Với Thế Lữ, bước vào cõi tiên là bước vào không gian thơm ngát hương hoa, là tìm đến nguồn sáng đặc biệt, là bước vào miền thanh thản, ở đó không gian khép mở đan hoà giữa hai cõi mơ - thực:

"Gió mây đuổi giấc mơ màng

Thế Lữ với tiến trình văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 - 8

Tỉnh ra thấy ánh trăng vàng bên chăn Trước cửa sổ, đầy sân những bóng

Cành lá đen lay động vật vờ Một cơn gió vội vàng qua

Sau hiên xào xạc mấy tờ chuối xanh

... Trời khuya rạng rỡ đìu hiu

Thoáng nghe lọt tiếng sáo diều trong trăng"

(Thức giấc)

Nếu đi tìm duyên cớ của giấc mơ siêu thoát Thế Lữ - giấc mơ lên miền tiên giới thì nhiều khi ta lại nhận được sự hồi âm, lý giải từ chính thơ ông. Bởi hơn một lần người thơ lặp lại ước muốn tìm tới nơi trong trẻo của hồn mình.

"Giận đời muốn khuất những trò đảo điên Để lòng theo đám mây huyền

Mây đưa ta bước tới miền gió trăng"

(Mấy vần ngây thơ)

Đã có không ít những người khẳng định sự thoát ly trước hiện thực cuộc đời là một dấu hiệu trốn tránh hiện thực song thực tế có muôn vàn cách

đến với cuộc đời của văn chương. Giấc mơ lên tiên của Thế Lữ cũng là cách lọc đời, lắng hồn mà hướng về gốc thiện căn của con người.

"Một cánh rủ theo bao cánh khác Quanh mình tấp tới trận mưa hoa Theo lối hoa về rẻo bước lên

Chân đưa lần đến cảnh thần tiên Đường cây uốn éo êm đềm phủ Tàn lá xanh rờn ánh biếc xuyên"

(Mưa hoa)

Đến với cõi tiên trong thơ Thế Lữ ta bắt gặp cõi tiên hoà với cõi thực, cảnh tiên đan với cảnh đời. Đó là sự giao hoà của hai thế giới thực - mộng khiến hai cõi tiên - trần không còn ranh giới cách biệt:

"Hôm qua đi hái mấy vần thơ, Ở mãi vườn tiên gần lạc Hồ.

Cảnh tĩnh, trong hoa chim mách lẻo, Gió đào mơn trớn liễu buông tơ."

(Vẻ đẹp thoáng qua)

Thế giới cảnh tiên kia đâu có xa lạ mà cận kề với cuộc sống ở cõi đời người. Xuân Diệu "bắt" đúng mạch tâm tính của Thế Lữ khi nhận xét về mấy câu thơ trên "Đi chơi cảnh tiên" mà nói cụ thể là "hôm qua" chính xác như vậy thì là cuộc đời đó thôi; và cuối bài kết bằng "người tiên biến mất" trong một khung cảnh tiên thì là thẩm mĩ của nghệ sĩ, thi sĩ (đọc thơ Thế Lữ - Xuân Diệu).

Khác với các nhà thơ khác, đến với cõi tiên, Thế Lữ không hề chủ trương công - kênh - sự thoát ảo vì cõi tiên được thi nhân kéo gần về phía cuộc đời, giữa cõi tiên và cõi đời nhiều khi chỉ là đường biên mong manh đủ cho sức lay gợi.

Bài Hoa Thuỷ tiên, người thơ đã khéo tạo ra không khí chuyển giao giữa hai cõi ấy. Mối tương giao giữa những đóa hoa thuỷ tiên với hình ảnh tiên nữ chập chờn, khung cảnh thực nơi phòng sách của chàng Vân Sinh bỗng thoắt nhập thành cung tiên cho sự hội ngộ tiên trần, rồi "ánh đèn rạng rỡ" bên những "cụm hoa đào say sưa bừng nở" góp phần thức dựng cõi mơ tiên:

"Trong phòng sách, dưới ánh đèn rạng rỡ Cụm hoa đào say sưa bừng mới nở

Như thiên nga vừa thức giấc thần tiên Hoa thẹn thò gương mắt ngạc nhiên Vì đã thấy Vân Sinh ngồi lặng đó

Tay nâng má đăm đăm nhìn cửa sổ"

(Hoa thuỷ tiên)

Có thể thấy trong tạo dựng không khí vừa ảo lại vừa thực cho không gian tiên cảnh, Thế Lữ một mặt đạt được ở cảm quan tinh tế của thi nhân, đồng thời vẫn những câu thơ ấy, người nghệ sĩ lãng mạn như cũng tạo ra một không gian của kịch với cách bài trí đủ gợi của cảnh cùng với cả tâm thế và tư thế cho nhân vật của mình.

Một điều khác biệt ở Thế Lữ khi đối diện giữa hai cõi thực - ảo nhà thơ luôn giữ được trạng thái cân bằng sinh thái và tâm thế của con người, như cảm nhận và phát hiện sự thanh lọc tinh thần từ chính bản thân con người. Thậm chí ngay cả trong thế giới của sự đoạ lạc, khi con người chìm vào không gian quyến rũ đến mê hoặc của ma tuý thì hình ảnh Tiên nga, cảnh Đào Nguyên đâu chỉ dẫn vào sự mê đắm, lãng quên:

"Lung linh vàng dội cung quỳnh

Nhịp nhàng biến hiện những mình Tiên Nga Chập chờn gần tưởng như xa

Ngọc reo muôn khúc đàn ca im lìm Hàng châu lặng lẽ rơi chìm

Dưới hồ trong vắt. Bên thềm đăm đăm Hai cô lả lướt nghiêng nằm

Hai cô đứng thắp hương trầm hai bên Khói huyền lên... khói huyền lên

Thuyền trôi lững thững. Đào nguyên đâu rồi."

(Ma tuý)

Như vậy, có thể khẳng định cõi tiên là miền cảm xúc nổi bật và tâm đắc nhất trong thơ Thế Lữ. Nếu làm con số thống kê về những từ ngữ có liên quan tới cõi tiên trong thơ Thế Lữ như cung tiên, cung trăng, cung nguyệt, Bồng lai... hoặc những hình ảnh mang dáng vẻ tiên nữ như Ngọc nữ, Ngọc Châu, Tiên Nga... Ta thấy không dưới 40 lần xuất hiện trong Mấy vần thơ của Thế Lữ. Con số ấy cũng đủ để khẳng định thế giới tiên cảnh trong thơ Thế Lữ mặt khác khẳng định sức liên tưởng bay bổng, lãng mạn của tâm hồn thi sĩ khi hướng tới cái đẹp để hoà nhập với trạng thái tinh thần phóng khoáng, thanh thản của tâm hồn nghệ sĩ. Mặt khác đó cũng là sự kiếm tìm những hình ảnh quen thuộc của thiên nhiên, của sự sống được thanh lọc qua tình yêu thương của chính nhà thơ.

Sự xuất hiện những nàng tiên nơi thượng giới cũng là hình ảnh quen thuộc trong miền tưởng tượng của các nhà thi nhân. Song điều thú vị dưới lăng kính của Thế Lữ những người đẹp ấy được ẩn hiện theo lớp lang như lớp kịch vậy. Phải chăng sự hoà hợp giữa hai tố chất thi sĩ và kịch tác gia trong vai trò đạo diễn đã giúp cho Thế Lữ biết đưa các nàng tiên tới đâu vào lúc nào và lúc nào thì các nàng thoắt biến. Tiên nga ẩn hiện trong cảnh sắc dịu hiền của chốn Bồng lai với những cung bậc bổng trầm réo rắt của tiếng sáo thiên thai.

"Theo chim tiếng sáo lên khơi

Lại thêm dòng suối bên người tiên nga Khi cao vút tận mây mờ

Khi gần vắt vẻo bên bờ cây xanh

Êm như lọt tiếng tơ tình

Đẹp như Ngọc nữ uốn mình trong không..."

(Tiếng sáo thiên thai)

Giai thoại đẹp phủ trong lớp sương mờ huyền thoại về chàng Từ Thức gặp và bén duyên tiên đã được các thi nhân tài tử từ cổ chí kim khám phá trong nghệ thuật như giấc mộng tình ái trên trần. Vậy mà Thế Lữ cũng mơ màng xúc động:

"Vì bọn làm thơ hẳn sống lâu Ta với nàng tiên ca hát mãi

Ngoài ra, còn có thiết chi đâu

Cho đến ngày ta phải ngược xuôi Trong khi vất vả cũng không thôi Nhởn nhơ ngâm hoạ cùng nương tử Một cuộc tình thiêng giữa ở đời."

(Ngày xưa còn nhỏ)

Hoá ra cuộc hội ngộ trên trần trong thơ Thế Lữ mang một sắc điệu riêng. Bởi đó là cuộc tri kỉ tương phùng, đối diện đàm tâm giữa cái đẹp với thơ ca. Người thơ đâu chỉ chăm chú mà phóng lên cõi tiên xa vời thoát tục mà đó là cuộc tình duyên ở giữa cõi đời. Phải chăng đó cũng chính là ước nguyện của người nghệ sĩ hướng tới cái đẹp trong cuộc "kết giao hẹn đến muôn ngàn kiếp".

Một nét rất mới lạ, rất riêng biệt trong thơ Thế Lữ là nhà thơ luôn tạo ra một khoảng vọng mỹ nhân. Nhà thơ một mặt gọi ra không gian huyền diệu với một không khí mơ màng với một lớp lang gợi cảm, một mặt như mời gọi bóng hình giai nhân. Nét đẹp bất chợt hiện dần từ cặp môi tiên, bước chân tiên hay đó là sự xuất hiện đầy ấn tượng "từ khung tối một nàng tiên kiều

diễm" - Nhà thơ luôn tạo một khoảng cách nhoà mờ, nhẹ thoáng mà lay động, gợi cảm nhiều hơn là sự trực diện cụ thể:

"Chuông dứt tiếng, khói nao nao cuộn Một áng hương qua... một tiếng thở dài Của điệu tiên trong trẻo tuyệt vời

Se sẽ nổi - Bức rèm châu biến

Từ khung tối, một nàng tiên kiều diễm Nhẹ bước ra, tươi như ánh bình minh Đôi mắt đen, đắm đuối long lanh,

Như đôi ngọc huyền, sâu xa huyền bí."

(Hoa thuỷ tinh)

Đọc những vần thơ trên ta như đứng trước bức tranh tiên với những đường nét thơ mộng, uyển chuyển của hoạ sĩ, thi sĩ Thế Lữ. Tất thảy cõi tiên, người tiên, cảnh tiên cứ thấp thoáng mơ màng, thật ám ảnh.

Có thể thấy những bài thơ viết về cõi tiên của Thế Lữ đã là những làn gió trong lành xua đi những nặng nề, u ám của cuộc sống đời thường. Những bài thơ ấy dù là trong ảo mộng nhưng nó vẫn có dáng dấp gần gũi với cuộc sống đời thường. Đó là nét mới độc đáo, thú vị và rất đáng trân trọng trong thơ Thế Lữ.

2.2.2. Cách tân về hình thức (hình thức biểu hiện)

Nói đến hình thức là đề cập đến nhiều yếu tố trong đó có hệ thống thể loại, ngôn ngữ, hình ảnh. Một lối thơ mới ra đời, đương nhiên song hành với quan niệm thẩm mĩ là hình thức biểu hiện. Hình thức là sự hiện thực hoá ý tưởng của nhà thơ. Thế Lữ đã có những cách tân táo bạo về hình thức biểu hiện để đưa Thơ mới đến toàn thắng.

2.2.2.1. Đổi mới cấu trúc câu thơ

Do ảnh hưởng của tư duy khoa học phương tây, Thế Lữ đã có sự cách tân táo bạo về mặt cấu trúc câu thơ làm nổi bật bản chất của sự vật hiện tượng.

Tìm hiểu thơ Thế Lữ ta thấy Thế Lữ đã sáng tạo ra những câu thơ định nghĩa theo một công thức chung (danh từ + là + danh từ). Ví dụ như:

- Tôi chỉ là khách tình si

- Tôi là kẻ bộ hành phiêu lãng

(Cây đàn muôn điệu)

- Tôi chỉ là người mơ ước thôi

(Bên sông đưa khách)

- Tôi là một khách chinh phu

(Tiếng gọi bên sông)

- Thế Lữ là một chàng kỳ khôi

(Tự trào)

- Đó là một kẻ không nơi trú ẩn

(Con người vơ vẩn)

Trong công thức mà Thế Lữ đưa ra thì đại từ nhân xưng chỉ là một con người cá nhân cụ thể, tự xưng cụ thể. Còn tân ngữ thì muôn hình vạn trạng, lúc thì là người mơ ước hay khách tình si, lúc thì kẻ bộ hành hay một anh chàng kỳ khôi không nơi trú ẩn. Điều này là nét mới lạ bộc lộ rõ cái "tôi" chủ thể mà văn học trước đó chưa từng có.

Như đã nói ở trên, một trong những đóng góp của Thế Lữ vào trong làng Thơ mới là phương pháp làm nổi bật tư duy logic. Khi đã chấp nhận tư tưởng duy lý rồi thì khó có thể chấp nhận được một ý tưởng dừng lại chữ cuối một câu thơ. Do đó, câu thơ của Thế Lữ không phải là một câu ngữ pháp mà là một mảng thơ dài kiến trúc theo văn phạm tiếng Pháp kiểu như:

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 15/05/2022