chiếu của chỉ tiêu kinh tế xã hội...
Thẩm định khách hàng vay vốn (chủ đầu tư): Thẩm định tư cách pháp nhân của khách hàng vay vốn, thẩm định năng lực tài chính và hoạt động kinh doanh của khách hàng trong 3 năm gần nhất, thẩm định đảm bảo tiền vay và thẩm định khả năng trả nợ vay.
Ngoài ra ngân hàng nên có kế hoạch bồi dưỡng cán bộ thẩm định hay cử họ đi học ở nước ngoài hoặc đi tập huấn hay mời chuyên gia về hướng dẫn thông qua các xi-mê-na hoặc tập huấn ngắn ngày.
3.3.4. Hoàn thiện phương pháp thẩm định dự án đầu tư vay vốn tại Ngân hàng ngoại thương Lào
Ngân hàng ngoại thương Lào quen sử dụng phương pháp truyền thống để thẩm định DAĐT như phương pháp theo trình tự và phương pháp so sánh đối chiếu các chỉ tiêu, thì còn thiếu chưa đầy đủ khi so với lý thuyết, như vậy trước hết ngân hàng nên hoàn chỉnh những văn bản hướng dẫn chi tiết về phương pháp thẩm định DAĐT, khi thẩm định DAĐT nên sử dụng những phương pháp như sau: Phương pháp thẩm định theo trình tự, phương pháp so sánh đối chiếu, phương pháp dự báo, phương pháp phân tích độ nhạy và phương pháp giảm thiểu rủi ro.
Phương pháp thẩm định theo trình tự để áp dụng thẩm định tổng quát về phương diện pháp lý của dự án như kiểm tra hồ sơ pháp lý có đủ điều kiện theo quy định của ngân hàng, sau đó mới thẩm định chi tiết.
Phương pháp so sánh đối chiếu, phương pháp này so sánh đối chiếu các nội dung trong dự án với các quy định của pháp lý, các tiêu chuẩn, định mức kinh tế kỹ thuật ...so sánh để lựa chọn các phương án tối ưu.
Hai phương pháp trên cần tiếp tục hoàn thiện vì là các phương pháp chủ yếu, phù hợp với điều kiện của ngân hàng nói riêng, CHDCND Lào nói chung. Tuy nhiên, hiện nay ngân hàng cần đẩy mạnh ứng dụng các phương pháp khác như:
Phương pháp dự báo, áp dụng vào khi thẩm định khía cạnh tài chính của dự án để thẩm định tình hình cung cầu, giá cả và các yếu tố có ảnh hưởng đến tính khả thi của dự án.
Có thể bạn quan tâm!
- Những Nguyên Nhân Của Các Hạn Chế Trong Công Tác Thẩm Định Dự Án Đầu Tư Vay Vốn Tại Ngân Hàng Ngoại Thương Lào
- Cơ Hội Và Thách Thức Của Ngân Hàng Ngoại Thương Lào Khi Chuyển Đổi Nền Kinh Tế Sang Cơ Chế Thị Trường Có Sự Điều Tiết Của Nhà Nước Theo Định
- Quan Điểm: Thẩm Định Dự Án Đầu Tư Vay Vốn Tại Ngân Hàng Ngoại Thương Lào Phải Đảm Bảo Yêu Cầu Khách Quan Và Hiệu Quả
- Tăng Cường Công Tác Kiểm Soát Chất Lượng Thẩm Định Dự Án Đầu Tư Vay Vốn
- Thẩm định dự án đầu tư vay vốn tại Ngân hàng ngoại thương Lào - 20
- Thẩm định dự án đầu tư vay vốn tại Ngân hàng ngoại thương Lào - 21
Xem toàn bộ 233 trang tài liệu này.
Phương pháp phân tích độ nhạy, phương pháp này dùng để kiểm tra tính vững chắc về hiệu quả tài chính như: lợi nhuận, thu nhập thuần, tỷ suất hoàn vốn... của DAĐT.
Phương pháp giảm thiểu rủi ro, phương pháp này áp dụng để những phương án phòng tránh hoặc giảm thiểu thiệt hại khi rủi ro xảy ra.
Ngoài ra ngân hàng nên có kế hoạch bồi dưỡng cán bộ thẩm định hay cử họ đi học ở nước ngoài hoặc đi tập huấn hay mời chuyên gia về hướng dẫn về các phương pháp được ứng dụng.
3.4. MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ VAY VỐN TẠI NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG LÀO
Qua thực tế phân tích và đánh giá công tác thẩm định DAĐT vay vốn tại NHNT Lào cho thấy Ngân hàng đã và đang có nhiều cố gắng để thực hiện ngày càng tốt hơn công tác này, nhưng vẫn còn một số vẫn đề còn tồn tại và hạn chế về chủ quan và khách quan như: chủ quan là ngân hàng (năng lực, quy trình, nội dung, phương pháp); khách quan là văn bản pháp luật liên quan và hệ thống thông tin. Tuy nhiên, trong điều kiện kinh tế thị trường ngày nay về cơ chế, chính sách còn chưa thống nhất đồng bộ và luôn thay đổi thì yêu cầu phải có biện pháp tích cực và cụ thể hơn nữa nhằm nâng cao vai trò và hiệu quả trong công tác thẩm định tại Ngân hàng theo cả chiều rộng và chiều sâu là điều cần thiết như:
3.4.1. Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ nhân viên thẩm định dự án đầu tư
Nâng cao năng lực, đào tạo trao đổi chuyên môn cán bộ thẩm định
Ngân hàng phải phối hợp với các Trường Đại học và cơ quan chịu trách nhiệm thẩm định nên mở các lớp đào tạo, tổ chức các buổi hội thảo, mời các chuyên gia về nói chuyện, trao đổi kinh nghiệm với các Bộ, cơ quan, ngành, tỉnh đia phương, tìm nguồn tài liệu cho cán bộ tham khảo... Bên cạnh khuyến khích động viên cán bộ tự trau dồi kiến thức, các Bộ, ngành, cơ quan ngang bộ và địa phương có thể cử những nhân viên có đủ năng lực đi đào tạo ở nước ngoài để đi học tập những phương pháp hiện đại, đi thực tế để thêm kinh nghiệm và có thông tin chính xác trong những khoảng thời gian nhất định, từ
đó giúp cán bộ có điều kiện học hỏi, bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ, khả năng đánh giá thông tin, có trình độ về ngoại ngữ, nắm được tình hình kinh tế, chính trị chung của đất nước, sáng tạo chủ động hơn trong các tình huống của dự án. Ngoài ra, cần tập trung nghiên cứu tìm hiểu về màng công việc mình phụ trách. Nhìn nhận một cách đúng đắn về khả năng gây nợ của doanh nghiệp quốc doanh (nguồn vốn ngân sách Nhà nước, ODA và vốn khác), nắm được danh mục các dự án ưu tiên sử dụng vốn ngân sách nhà nước, ODA, và hiểu biết khái quát về nhà tài trợ cùng với những ràng buộc của họ về nguồn vốn tài trợ.
Giáo dục về tư cách đạo đức nghề nghiệp
Một yếu tố không thể thiếu được đối với mỗi cán bộ thẩm định là phẩm chất đạo đức nghề nghiệp, tính trung thực, khách quan. Mọi cán bộ cần nhận thấy rõ trách nhiệm của mình trong công việc, đồng thời xây dựng cho bản thân tính kỷ luật nghề nghiệp cao, phong cách làm việc chuẩn mực. Tư tưởng, lập trường đúng đắn, có khả năng nhạy bén với những thay đổi trong môi trường kinh tế vĩ mô.
Cơ quan thẩm đinh cũng nên có chế độ đãi ngộ xứng đáng đối với nhân viên, kịp thời khen thưởng về vật chất lẫn tinh thần đối với các cán bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ, đồng thời phát hiện ra những biểu hiện sa sút về đạo đức để kịp thời uốn nắn. Xử lý nghiêm minh đối với các cán bộ có hành vi tiêu cực, vô tình hay cố ý làm trái các quy định chung dẫn đến những thiệt hại Ngân hàng nói riêng và Nhà nước nói chung...
Việc làm tốt công tác thẩm định không chỉ phụ thuộc vào bản thân mỗi cán bộ, mà còn phải có sự kiểm tra, giám sát thường xuyên của cơ quan thẩm định. Do vậy, cơ quan thẩm định cũng phải tăng cường công tác thanh tra, kiểm soát lựa chọn và đào tạo các cán bộ thanh tra có năng lực, có phẩm chất tốt và có chuyên môn nghiệp vụ vững vàng.
Tuyển chọn nhân sự đầu vào có chất lượng cao
Trong thời gian qua, đa số đội ngũ nhân viên được tuyển chọn vào Ngân hàng và cơ quan chịu trách nhiệm thẩm định dự án đầu tư đều có trình độ chuyên môn tương đối cao, tuy nhiên trong thời gian tới Ngân hàng, cả Bộ,
ngành, địa phương nên chú ý tiếp tục thực hiện công tác bổ sung, tuyển mới những người có năng lực cao (chuyên môn, nghiệp vụ, phong cách phục vụ...) thực sự vào làm việc. Cán bộ được tuyển chọn cần có sự kết hợp hài hoà giữa năng lực chuyên và tư cách đạo đức (thi viết, thi phỏng vấn và thực tập thực tế khoảng một số thời gian nhất định (1 năm) và phải được tổ chức một cách nghiêm túc để có thể lựa chọn được người đủ trình độ chuyên môn và đạo đức được làm việc). Sau khi tuyển dụng, Ngân hàng, cơ quan thẩm định cần phổ biến các mục tiêu, các quy định của Ngân hàng, cơ quan thẩm định cũng như các quy định của luật pháp có liên quan, đồng thời cần được hướng dẫn, đào tạo chuyên sâu cho họ về công việc sẽ được giao.
Cơ quan thẩm định và Ngân hàng cần có các chính sách thu hút nhân tài vào làm việc lâu dài hoặc mời làm cố vấn hoặc làm công tác viên cho các hoạt động của mình.
3.4.2. Tăng cường thiết bị công nghệ và ứng dụng công nghệ thông tin cho công tác thẩm định
Tăng cường thiết bị công nghệ: Trong hệ thống NHNT Lào tuy đã được trang thiết bị máy tính cá nhân và các thiết bị văn phòng đầy đủ về số lượng nhưng thực tế lại gặp vấn đề ở chất lượng thiết bị: máy tính có cấu hình chưa cao, màng Internet thì chậm không đáp ứng được nhu cầu chuyên dùng do công tác thẩm định là rất phức tạp, khối lượng việc đồ sộ, cán bộ thẩm định lại phải cần có một kiến thức rộng am hiểu nhiều lĩnh vực mới như ngành khai thác mỏ khoáng sản, thuỷ điện... có thể thực hiện tốt công việc của mình. Thêm nữa việc TĐDA tốn rất nhiều thời gian, công sức của người thẩm định. Cho nên việc ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại vào việc thẩm định DAĐT là rất cần thiết để góp phần trực tiếp vào việc nâng cao chất lượng thẩm định, giúp cho cán bộ thẩm định cập nhật thông tin một cách nhanh chóng, tiết kiệm được thời gian và sức lực, đưa đến kết quả thẩm định có độ chính xác cao, và nhiều dự án được thẩm định hơn, nắm bắt nhiều cơ hội trong quyết định cho vay DAĐT, hạn chế việc thuê chuyên gia. NHNT Lào nên đầu tư thêm để nâng cao khả năng chuyên dùng trang thiết bị phục vụ trong công tác thẩm định như máy vi tính (cả phần cứng, phần mềm). Những
máy này nhất thiết phải được nối màng trong toàn hệ thống Trụ sở chính tới chi nhánh, các Bộ, ngành, địa phương có quan hệ liên quan với DAĐT xin vay vốn để có thể chủ động tra cứu về chủ dự án về thông tin liên quan đến chương trình dự án đầu tư. Thiết bị này cũng cho phép lưu trữ tình hình thực hiện DAĐT.
Tăng cường việc ứng dụng công nghệ thông tin: Có nghĩa là tăng cường công tác quản lý thông tin liên quan đến việc lập, thẩm định và quản lý triển khai thực hiện dự án. Các thông tin này phải bảo đảm đầy đủ, chính xác và kịp thời. Để thực hiện yêu cầu này, cần phải tổ chức sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan có liên quan và xây dựng hệ thống dữ liệu tập trung.
Thông tin là căn cứ để thẩm định do đó nâng cao chất lượng thu thập và xử lý thông tin là nâng cao chất lượng thẩm định DAĐT. Nguồn thông tin phong phú, chính xác thì kết quả thẩm định mới có độ chính xác cao. Do đó NHNT Lào một mặt phải gia tăng nguồn cung cấp thông tin, mặt khác phải tìm cách xử lý lưu trữ thông tin một cách hữu hiệu. Về nguồn thông tin cần phải đa dạng hơn nữa. Ngoài việc yêu cầu doanh nghiệp phải nộp các tài liệu liên quan đến TĐDA, các cán bộ thẩm định phải phỏng vấn trực tiếp người đại diện giao dịch của doanh nghiệp để chất vấn các thông tin chưa chuẩn xác, làm sáng tỏ hơn một số vấn đề như tư cách trình độ chuyên môn, quản lý... của chủ đầu tư. Đồng thời kết hợp với việc tham quan cơ sở sản xuất, văn phòng làm việc để điều tra năng lực sản xuất, quản lý. Để đảm bảo những thông tin sử dụng là chính xác, ngoài những thông tin có được do doanh nghiệp cung cấp, cán bộ thẩm định còn có thể thu thập các thông tin cần thiết từ nguồn bên ngoài như:
+ Thông tin từ trung tâm phòng ngừa rủi ro thuộc NHNN (CIB)
+ Thông tin từ các NHTM mà doanh nghiệp có liên quan tín dụng
+ Thông tin từ các bạn hàng của doanh nghiệp, từ sách, báo tài liệu cung cấp thông tin về doanh nghiệp và các lĩnh vực DAĐT
Tuy nhiên, vấn đề thu thập thông tin nói trên lại là một vấn đề hết sức khó khăn do phạm vi thu thập thông tin rộng, các kênh cung cấp thông tin không đầy đủ và khó tiếp cận trong khi cán bộ thẩm định bị giới hạn bởi thời
gian. Do vậy, người thẩm định thường xuyên lưu ý vấn đề thu thập và lưu trữ thông tin một cách khoa học những ngành nghề do mình phụ trách. Mặt khác để thông tin mà doanh nghiệp cung cấp đảm bảo tính khách quan và trung thực, NHNT Lào cần yêu cầu những thông tin đó phải có xác nhận của cơ quan kiểm toán độc lập.
Hệ thống thông tin tín dụng phải được tổ chức thành màng lưới thống nhất từ trung ương đến cơ sở theo hình thức tập trung kết hợp với phân tán. Tức là toàn bộ thông tin về khách hàng có quan hệ với bất cứ cơ sở giao dịch, chi nhánh của NHNT Lào đều được tập hợp và lưu trữ tại trung tâm điều hành của NHNT Lào đồng thời tại chi nhánh nơi khách hàng có quan hệ. Đặc biệt ngoài những thông tin về tài chính và hoạt động của khách hàng còn phải thu thập các thông tin phi tài chính như lịch sử hình thành và phát triển của doanh nghiệp, môi trường kinh doanh và các yếu tố thị trường, địa vị pháp lý của doanh nghiệp, nhà cung cấp, kênh phân phối và tiếp thị sản phẩm, kế hoạch và chiến lược kinh doanh, uy tín, danh tiếng và thương hiệu của doanh nghiệp. Cán bộ làm việc trong bộ máy tổ chức thông tin tín dụng phải là cán bộ chuyên trách có am hiểu về hoạt động NHTM, quản trị rủi ro và hiểu biết về công nghệ thông tin.
Để các thực hiện thu thập được phát huy hiệu quả tốt thì bản thân các cán bộ tín dụng người chịu trách nhiệm thẩm định phải không ngừng nâng cao trình độ tin học của mình để có xử lý các thông tin một cách nhanh chóng.
3.4.3. Tăng cường nguồn kinh phí cho công tác thẩm định dự án
Theo như tình hình hiện nay thì dường như kinh phí cho việc TĐDA còn hạn chế tại NHNT Lào điều này là một trong những nguyên nhân dẫn đến kết quả thẩm định chưa cao. bởi vì để có thể thẩm định tài chính dự án tốt thì NHNT Lào cũng cần phải tổ chức gặp gỡ khách hàng, thường xuyên xuống cơ sở để kiểm tra. Việc thẩm định không chỉ ở một giai đoạn mà còn phải kiểm tra trong và sau khi doanh nghiệp vay vốn... Điều khó khăn ở đây là hầu hết việc thu thông tin, xử lý thông tin... đều là do cán bộ thẩm định tự cập nhật nên chi phí thẩm định coi như được gộp vào lương của cán bộ. Vì thế mà cán bộ thẩm định khi phân tích thường dựa vào những số liệu thông tin sẵn có
hoặc số liệu do chủ đầu tư cung cấp, điều nay là một hạn chế rất lớn vì nó mang tính chủ quan nhiều, khó có thể xác định được dự án mà ngân hàng cho vay vốn là đạt hiệu quả. Vậy để có thể thẩm định tài chính dự án tốt thì NHNT Lào nên lập ra một qũy đầu tư riêng để chi phí cho hoạt động TĐDA, nó sẽ góp phần giảm bớt phần nào khó khăn cho các cán bộ thẩm định, đồng thời nó còn để đào tạo cán bộ, tăng cường trang thiết bị cơ sở vật chất, kỹ thuật, ứng dụng tin học trong quá trình thẩm định để sớm đưa việc tính toán các chỉ tiêu tài chính phức tạp vào quy trình thẩm định.
Nhà nước: Cũng phải chú trọng kinh phí thẩm định vì một trong những tác động ảnh hưởng đến chất lượng làm việc của các cán bộ thẩm định DAĐT của nhà nước và doanh nghiệp quốc doanh là do thiếu kinh phí, thiếu vốn để mua sắm thêm máy móc thiết bị làm việc hiện đại, mua sắm công nghệ, phần mềm chuyên dùng. Đồng thời, do thiếu vốn làm hạn chế việc học tập, bồi dưỡng trình độ của các cán bộ. Bởi vậy, việc tăng kinh phí phục vụ cho công tác thẩm định là hết sức cần thiết. Để làm được điều này cần có sự đóng góp, ủng hộ từ nhiều phía. Bộ Kế hoạch và Đầu tư phải kết hợp cùng với Bộ Tài chính, Bộ Xây dựng... đưa ra mức phí thẩm định phù hợp với từng dự án. Các mức thu lệ phí thẩm định cũng như mức chi trả cho các tổ chức tư vấn cho từng dự án cần phải công khai, minh bạch, có báo cáo cụ thể. Nhà nước cũng cần quan tâm đến việc cấp kinh phí mua sắm thiết bị công nghệ, đào tạo cán bộ cho Vụ trách nhiệm thẩm định dự án, các cơ quan, tỉnh và địa phương. Nhất là trong tình hình phát triển mới hiện nay.
Giải pháp được kiến nghị nhằm khắc phục tình trạng trên là cần tạo sự đồng bộ về chính sách phân cấp trong quản lý, sử dụng vốn Ngân sách nhà nước, ODA và vốn khác, trước hết là quy trình, thủ tục theo hướng tăng cường năng lực, quyền hạn cụ thể cho các địa phương, hoàn chỉnh khung pháp luật về quản lý Ngân sách nhà nước và ODA trong thực hiện các giai đoạn của một chu trình dự án cũng như thể chế hóa quy trình tổ chức thực hiện phân cấp ở địa phương và các Bộ, ngành.
Hiện nay, ở Lào chưa có quy định rõ ràng về kinh phí về thẩm định DAĐT vì vậy, Chính phủ phải quy định chi phí thẩm định DAĐT rõ ràng chi
tiết như ở Việt Nam có ban hành quyết định và thông tư hướng dẫn về thu phí thẩm định DAĐT khá chi tiết đã diễn ra như sau:
Mức thu: Xác định số tiền phí thẩm định đầu tư xây dựng phải thu:
a) Căn cứ xác định số tiền phí thẩm định DAĐT xây dựng phải thu là dự toán giá trị công trình đầu tư được duyệt (không bao gồm thuế giá trị gia tăng) và mức thu cụ thể như sau:
Phí thẩm định DAĐT = Tổng mức đầu tư được phê duyệt x Mức thu Trường hợp nhóm công trình có giá trị nằm giữa các khoảng giá trị
công trình ghi trên Biểu mức thu thì phí thẩm định đầu tư phải thu được tính theo phương pháp nội suy như sau:
Nib - Nia
Nit = Nib – { -------------- x ( Git – Gib ) }
Gia – Gib
Trong đó:
+ Nit là phí thẩm định cho nhóm dự án thứ i theo quy mô giá trị cần tính (đơn vị tính: %).
+ Git là quy mô giá trị của nhóm dự án thứ i cần tính phí thẩm định đầu tư (đơn vị tính: giá trị công trình).
+ Gia là quy mô giá trị cận trên quy mô giá trị cần tính phí thẩm định (đơn vị tính: giá trị công trình).
+ Gib là quy mô giá trị cận dưới quy mô giá trị cần tính phí thẩm định (đơn vị tính: giá trị công trình)
+ Nia là phí thẩm định cho nhóm dự án thứ i tương ứng Gia (đơn vị tính: %)
+ Nib là phí thẩm định cho nhóm dự án thứ i tương ứng Gib (đơn vị tính: %)
Trong đó mức thu theo tổng vốn ĐTDA được quy định tại Biểu mức thu phí b) Số phí thẩm định đầu tư phải thu đối với một DAĐT được xác định theo hướng dẫn tại điểm a, khoản này nhưng được khống chế tối đa như sau:
Phí thẩm định DAĐT phải thu tối đa không quá 100.000.000 (Một trăm triệu) đồng/dự án.