tế thì chỉ quan tâm đến một số nội dung trong toàn bộ nội dung thẩm định DAĐT, và nội dung được các cán bộ quan tâm thẩm định chủ yếu là nội dung thẩm định về phương diện pháp lý, nội dung tài chính của dự án chỉ thẩm định tổng quát, thẩm định tài chính khách hàng, và tài sản đảm bảo, còn những nội dung khác đều ít được quan tâm, đặc biệt là những dự án đòi hỏi tính thiết kế kỹ thuật cao, ví dụ dự án khai thác mỏ chủ yếu dựa trên những đánh giá có sẵn của các doanh nghiệp trình lên trong hồ sơ dự án, điều này là do sự chi phối của nhiều yếu tố như: Khả năng, lĩnh vực am hiểu của cán bộ thẩm định, điều kiện thông tin, tính chất riêng của từng dự án, quan niệm… Nhiều nội dung còn dừng lại ở thẩm định khá tổng quát, dựa vào những thông tin của khách hàng cung cấp, thông tin phục vụ cho công tác thẩm định chưa đầy đủ, thiếu tính sát thực chủ yếu là thiếu ngân sách chi cho việc thu thấp thông tin. Ngoài ra cán bộ thẩm định chủ yếu quan tâm đến nội dung thẩm định về phương diện pháp lý, thẩm định về mặt tài chính, còn một nội dung khác ít khi được sử dụng, vì không quen, thiếu kinh nghiệm, chưa có văn bản hướng dẫn để áp dụng toàn bộ nội dung theo lý thiết.
Nhiều nội dung còn dừng lại ở thẩm định khá tổng quát như: thẩm định khía cạnh thị trường của dự án, thiết kế kỹ thuật công nghệ của dự án...ít khi được sử dụng, dựa vào những phân tích định tính là chủ yếu, thiếu tính sát thực có thể là nguyên nhân dẫn đến những sai sót không lường trước được, ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của Ngân hàng, có một số dự án gặp khó khăn khi đi vào hoạt động, buộc phải kéo dài thời gian trả nợ.
- Ngoài ra khi thẩm định về mặt tài chính của dự án, cán bộ thẩm định chỉ dựa vào một số chỉ tiêu để tính toán và dựa vào tài sản đảm bảo thế chấp, cầm cố, họ chưa tính đến khả năng hoạt động kinh doanh của dự án và thị sản phẩm của dự án,
- Việc tính toán doanh thu dự kiến hàng năm: Thông thường cán bộ thẩm định thường cho nó phụ thuộc vào sản lượng dự kiến và giá bán sản phẩm dự kiến. Nhưng sản lượng dự kiến lại phụ thuộc vào nhu cầu thị trường và công suất thực tế của máy móc thiết bị, công tác dự báo về nhu cầu sản
phẩm của dự án vẫn chưa thực sự hiệu quả. Việc xác định thị phần tiêu thụ của dự án chỉ lấy thông tin chung chung, chỉ đánh giá cảm tính xem thị trường những năm tới sẽ tăng bao nhiêu %. Đồng thời việc tính toán cũng chỉ tính đến giá trị thời gian của tiền mà chưa đề cập tới yếu tố lạm phát. Yếu tố lạm phát có ảnh hưởng rất lớn tới tính hiệu quả của dự án.
- Việc tính toán các khoản mục chi phí chủ yếu là do khách hàng đưa ra các số liệu mà nhiều khi không có sự tính toán lại.
- Việc thẩm định giảm thiểu rủi ro: thực tế các rủi ro mà cán bộ thẩm định dựa vào tài sản đảm bảo mà chưa đưa ra các số liệu tính toán cụ thể và các biện pháp giảm thiểu rủi ro cũng chưa thực sự được chú trọng.
- Ngoài ra hiện nay Lào chưa có Luật về thẩm định DAĐT, có một bộ luật về ngân hàng, có những pháp lệnh, chỉ thị nhưng chưa rõ ràng. Do vậy khi tiến hành thẩm định các DAĐT, cán bộ thẩm định thường dựa trên cơ sở của ngành kinh tế và các chỉ tiêu tài chính, và việc thẩm định chỉ mang tính ước lệ dựa trên các điều khoản của ngân hàng.
Có thể bạn quan tâm!
- Nội Dung Thẩm Định Dự Án Đầu Tư Tại Ngân Hàng Ngoại Thương Lào
- Đánh Giá Công Tác Thẩm Định Dự Án Đầu Tư Vay Vốn Của Ngân Hàng Ngoại Thương Lào
- So Sánh Tình Hình Nợ Xấu Với Tổng Dư Nợ Từ Năm 2000-2011
- Cơ Hội Và Thách Thức Của Ngân Hàng Ngoại Thương Lào Khi Chuyển Đổi Nền Kinh Tế Sang Cơ Chế Thị Trường Có Sự Điều Tiết Của Nhà Nước Theo Định
- Quan Điểm: Thẩm Định Dự Án Đầu Tư Vay Vốn Tại Ngân Hàng Ngoại Thương Lào Phải Đảm Bảo Yêu Cầu Khách Quan Và Hiệu Quả
- Hoàn Thiện Phương Pháp Thẩm Định Dự Án Đầu Tư Vay Vốn Tại Ngân Hàng Ngoại Thương Lào
Xem toàn bộ 233 trang tài liệu này.
Về phương pháp thẩm định: Cán bộ thẩm định đã quen hai phương pháp truyền thống như: phương pháp thẩm định theo trình tự và phương pháp so sánh đối chiếu, những phương pháp còn lại ít khi được sử dụng như phương pháp dự báo, phương pháp phân tích độ nhạy và phương pháp giảm thiểu rủi ro, vì chưa có văn bản hướng dẫn để áp dụng. Phương pháp dự báo, phương pháp phân tích độ nhạy và phương pháp giảm thiểu rủi ro, khi cán bộ thẩm định về mặt tài chính của dự án họ chỉ dựa vào tài liệu sẵn có của khách hàng.
Về trang thiết bị, công nghệ phục vụ công tác thẩm định DAĐT: Tuy đã được trang bị máy tính cá nhân và các thiết bị văn phòng đầy đủ về số lượng nhưng Ngân hàng lại gặp vấn đề ở chất lượng thiết bị máy tính có cấu hình chưa cao, mạng Internet thì chậm không đáp ứng được nhu cầu của nhân viên trong việc thu thập thông tin, phần mềm sử dụng trong phân tích chủ yếu là Microsoft Corporation (Word và Excel) có thể đã cũ và không còn phù hợp trong thời đại bùng nổ của công nghệ thông tin như hiện nay…
Cũng giống như tình trạng của các NHNT Lào nói chung và tình hình
thẩm định nói chung của toàn quốc, các phần mềm tin học chuyên dụng cho việc dự báo, tính toán, phân tích công việc thẩm định chưa được nghiên cứu, ứng dụng rộng rãi.
Về kinh phí thẩm định: Việc TĐDA phải có đầy đủ thông tin nhưng việc thu thông tin và xử lý thông tin này... đều là do cán bộ thẩm định tự cập nhật nên chi phí thẩm định coi như được gộp vào lương của cán bộ. Vì thế mà cán bộ thẩm định khi phân tích thường dựa vào những số liệu thông tin sẵn có hoặc số liệu do chủ đầu tư cung cấp, điều nay là một hạn chế rất lớn vì nó mang tính chủ quan nhiều, khó có thể xác định được dự án mà ngân hàng cho vay vốn là đạt hiệu quả. Như vậy để có thể thẩm định tài chính dự án tốt thì NHNT Lào nên lập ra một qũy đầu tư riêng để chi phí cho hoạt động TĐDA, nó sẽ góp phần giảm bớt phần nào khó khăn cho các cán bộ thẩm định, đồng thời nó còn để đào tạo cán bộ, tăng cường trang thiết bị cơ sở vật chất, kỹ thuật, ứng dụng tin học trong quá trình thẩm định để sớm đưa việc tính toán các chỉ tiêu tài chính phức tạp vào quy trình thẩm định.
2.4.3. Những nguyên nhân của các hạn chế trong công tác thẩm định dự án đầu tư vay vốn tại Ngân hàng ngoại thương Lào
Mặc dù chất lượng của công tác TĐDA đang ngày được nâng cao, tuy nhiên vẫn còn một số tồn tại cần giải quyết như sau:
Nguyên nhân về đội ngũ cán bộ: Cán bộ của Ngân hàng nói chung và của phòng tín dụng vẫn chưa đủ mạnh về số lượng và chất lượng cho công tác thẩm định. Mặc dù Ngân hàng đã thường xuyên tổ chức các khóa đào tạo về pháp luật, kỹ thuật... nhưng do trình độ của đội ngũ cán bộ thẩm định chủ yếu là cử nhân và thạc sỹ kinh tế mà các dự án vay vốn là đa dạng ngành nghề, yêu cầu cán bộ phải có kiến thức tổng hợp nên đội ngũ cán bộ vẫn chưa đủ mạnh để đáp ứng yêu cầu của công việc. Việc phân công TĐDA thì phần lớn là mỗi cán bộ là một số khách hàng nhất định chứ không phải phân công theo ngành, lĩnh vực. Như vậy sẽ gây khó khăn hơn cho công tác thẩm định do một cán bộ sẽ không thể có hiểu biết sâu sắc về tất cả các lĩnh vực được. Bên cạnh đó thì trình độ về ngoại ngữ, tin học của cán bộ tín dụng còn hạn chế nên gặp phải những
khó khăn trong một số dự án liên quan đến nước ngoài. Như dự án khai thác mỏ khoáng sản, phần thí dụ Ngân hàng đã xem xét khả năng tài chính được dựa vào thư bảo lãnh của ANZ Bank, vì công tác TĐDA công nghiệp có kỹ thuật phức tạp như khai thác mỏ, thủy điện, xây dựng nhà xương, đường quốc lộ, cầu... cán bộ thẩm định còn thiếu kinh nghiệm.
Tại một số chi nhánh chưa có cán bộ thẩm định chuyên trách về dự án, còn thiếu những kiến thức tổng quát về thị trường về dự án, về chế độ kiểm toán, tài chính mới được bổ sung, sửa đổi. Ngoài ra Ngân hàng chưa có chương trình đào tạo bồi dưỡng cán bộ thẩm định một cách tổng thể và cơ bản. Việc đào tạo hiện nay mới chỉ dựa trên hình thức tập huấn hoặc tự đào tạo.
Đội ngũ cán bộ thẩm định tại NHNT Lào còn chưa thực sự được tiếp xúc cận cảnh với thực tế của dự án. Hầu hết công tác thẩm định đều dựa trên những văn bản mà chủ đầu tư nộp cho Ngân hàng. Những đánh giá nhận định về dự án chỉ là những đánh giá trên giấy tờ, trên văn bản chứ chưa thực sự nắm bắt được tình hình thực tế nơi dự án sẽ thực hiện. Để thẩm định được tất cả các nội dung của dự án thì cán bộ thẩm định phải là người am hiểu tất cả các lĩnh vực chuyên ngành như xây dựng, mỏ khoáng sản, thủy văn, kinh tế... Đó là điểm mà cán bộ thẩm định NHNT Lào nói riêng cũng như cán bộ của hệ thống Ngân hàng nói chung đang vướng phải. Hầu hết cán bộ thẩm định của Ngân hàng đều được tuyển dụng từ các trường đại học kinh tế nên chỉ có thể nắm được các bước thẩm định về chỉ tiêu tài chính và chỉ tiêu kinh tế xã hội chứ không thể am hiểu về quy trình xây dựng, về thủy văn, khí hậu của địa điểm.... xây dựng dự án. Do đó trong quá trình thẩm định vẫn còn tồn tại những điểm mà cán bộ thẩm định chưa thật sự nắm bắt được tường tận. Hiện này còn thuê chuyên gia nước ngoài đặc biệt là chuyên gia về IT, như vậy nếu muốn áp dụng công việc thẩm định dự án hiện đại hóa Ngân hàng nên phải nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ.
Nguyên nhân về pháp luật: Việc bán hành pháp luật, chưa đầy đủ đặc biệt là luật thẩm định dự án, luật kế toán bổ sung sửa đổi chưa kịp thời đại hiện nay, luật kế toán chưa đồng bộ, hệ thống văn bản chưa đồng bộ và thống
nhất, một số văn bản vẫn chồng chéo nhau khi thực hiện cụ thể. Hệ thống văn bản pháp luật là cơ sở cốt lõi cho hoạt động vay vốn của Ngân hàng, đặc biệt là công tác TĐDA phải dựa vào theo những văn bản pháp lý, như vậy việc phát triển công tác thẩm định cũng cần thiết sự đồng bộ, thống nhất với nhau tất cả các Bộ, ngành, cơ quan ngang bộ, địa phương trong toàn quốc và thông lệ quốc tế cần phải liên quan phối hợp với nhau nói chung, đặc biệt là việc thực hiện tổ chức thẩm định DAĐT nói riêng, hiện nay Lào chưa có luật thẩm định DAĐT, hệ thống tiêu chuẩn kế toán Lào vẫn còn những khác biệt so với hệ thống tiêu chuẩn kế toán quốc tế và thủ tục tổ chức thực hiện pháp lý chưa chắt chẽ, sự phối hợp với các ngành có liên quan khi tổ chức TĐDA vẫn còn làm theo hình thức, chưa khảo sát thực tế.
Nguyên nhân về thông tin phục vụ cho công tác thẩm định DAĐT: Việc thu thập thông tin chưa đầy đủ, nhiều khi còn mang tính hình thức, có sự sai lệch thông tin này là do cán bộ thẩm định của Ngân hàng chưa có điều kiện đi xuống cơ sở nhiều để thẩm định tình hình hoạt động kinh doanh của khách hàng và cũng chưa có kế hoạch triển khai những chuyến đi đột xuất để thu thập được những thông tin mang tính chính xác và đáng tin cậy, vì thiếu ngân sách chi. Hầu hết doanh nghiệp tại Lào hiện nay chưa có hệ thống kế toán đồng bộ, họ chỉ ghi số kế toán hình thức và một doanh nghiệp có nhiều hệ thống sổ sách báo cáo kế toán (thường là 3), một dùng để báo cáo thuế (kết quả kinh doanh thấp hơn thực tế), một dùng để vay vốn ngân hàng (kết quả báo cáo thường hơn thực tế), một dùng cho nội bộ (số liệu thực). Với tình trạng như vây, khi doanh nghiệp gặp khó khăn thì ngân hàng rất khó nhận biết tình trạng thực của doanh nghiệp là như thế nào.
Nguồn thông tin phục vụ chủ yếu cho quá trình thẩm định là do khách hàng cung cấp, nhưng trên thực tế, lượng thông tin thường không đầy đủ, chất lượng không đáp ứng được yêu cầu-thiếu chính xác do còn mang nặng đánh giá chủ quan, không được xem xét, thẩm định lại của các chuyên gia. Mặt khác, việc thu thập thông tin còn phải tiến hành từ phía những đối tác khác hay ngành có liên quan đến dự án nhưng trong thực tế việc này thường bị bỏ
qua, mà nguyên nhân là do sự cạnh tranh nên việc giữ bí mật thông tin giữa những ngân hàng cũng là điều dễ hiểu. Thông tin trên hệ thống internet, báo chí... Hệ thống thông tin chuyên ngành còn hạn chế, còn thiếu tính nhất quán và không thể đảm bảo tính chính xác được, chưa phát huy hết tác dụng với công tác thẩm định tài chính. Đồng thời hệ thống thông tin mà khách hàng đưa ra không phải lúc nào cũng chuẩn xác do khách hàng muốn được vay vốn nên nhiều trường hợp đưa ra thông tin còn sai lệch. Lào chưa có một con số thống kê những tiêu chuẩn chung của các ngành kinh tế, đây là những chỉ tiêu về kinh tế, kỹ thuật, tài chính quan trọng được tổng kết qua hoạt động của ngành, các ngành có liên quan chưa công khai số liệu cho nhau, do đó khi tiến hành thẩm định các chỉ tiêu này cán bộ thẩm định không có những số liệu chuẩn mực để đối chiếu do vậy tính chính xác chỉ là tương đối theo ý chủ quan của cán bộ thẩm định là chủ yếu và dựa vào các dự án đã làm trước đó.
Việc nắm bắt thông tin của khách hàng không cân xứng và thiếu tin cậy như thế gây rất nhiều cản trở cho công tác thẩm định, đôi khi dẫn đến kết quả thẩm định sai lệch với thực tế rất nhiều gây thiệt hại cho Ngân hàng và doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả.
Nguyên nhân về trang thiết bị: Chất lượng thiết bị máy tính có cấu hình chưa cao, mạng Internet thì chậm không đáp ứng được nhu cầu của nhân viên thẩm định trong việc thu thập thông tin, phần mềm sử dụng trong phân tích chủ yếu là Microsoft Corporation (Word và Excel) có thể đã cũ và không còn phù hợp trong thời đại bùng nổ của công nghệ thông tin như hiện nay…vì thiếu vốn đầu tư về trang thiết bị
Nguyên nhân về kinh phí: Ngân hàng chưa có qũy đầu tư riêng để chi phí cho hoạt động TĐDA. Chỉ có qũy đầu tư chung và Chính phủ phải có quỹ ngân sách đầu tư vào cơ sở vật chất để xử lý thông tin phục vụ cho công tác thẩm định DAĐT
Kết luận chương 2
Chương 2 tập trung vào những vấn đề thực trạng thẩm định DAĐT trong đó việc TĐDA tại NHNT Lào là kiểm tra thẩm định xét duyệt cho vay, kiểm tra việc sử dụng vốn vay trong khi cho vay và kiểm tra xem xét xử lý- thu hồi nợ, đây là rất quan trọng và không thể thiếu được đặc biệt là thẩm định DAĐT của khách hàng, thẩm định phi tài chính, phân tích tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh và tình hình tài chính của doanh nghiệp, thẩm định khía canh thị trường, thẩm định khía cạnh công nghệ kỹ thuật, thẩm định khía cạnh tổ chức, quản lý thẩm định kinh tế - xã hội và thẩm định khía cạnh tài chính của chủ đầu tư.
Sau thời gian nghiên cứu tác giả luận án nhận thấy rằng NHNT Lào còn non yếu kinh nghiệm và cán bộ chuyên nghiệp về TĐDA đặc biệt là DAĐT nước ngoài, dự án có kỹ thuật phức tạp như: dự án khai thác mỏ khoáng sản, thuỷ điện, đường quốc lộ, cầu, nhà xưởng, xỷ nghiệp..., NHNT Lào chỉ xem xét lại báo cáo thẩm định của bên thứ ba và căn cứ vào giấy nhận xét của người đảm bảo thôi, không nghiên cứu kỹ vào sâu. Ngoài ra khi thẩm định dự án thực tế nội dung thẩm định và phương pháp thẩm định của NHNT Lào chưa đầy đủ so với lý thiết, còn quy trình thẩm định có nhiều bước chặt chẽ nhưng thời gian thẩm định hơi ngắn. Nhưng hiện nay cán bộ thẩm định của NHNT Lào cũng đưa ra được không ít bai học kinh nghiệm từ dự án nước ngoài và phải tiếp tục tham gia những dự án mới khác thêm nữa để là cho cán bộ thẩm định hiểu biết chuyên sâu, rộng hơn chuyên môn. Định hướng phát triển, một số giải pháp và kiến nghị sẽ trình bày chương tiếp theo.
CHƯƠNG 3
HỆ THỐNG QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ VAY VỐN TẠI NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG LÀO
3.1. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG LÀO ĐẾN NĂM 2020
Qua hoạt động 36 năm, trong đó trải qua 22 năm hoạt động theo cơ chế mới (từ năm 1989), NHNT Lào đã đạt được những thành tích đáng tự hào dưới sự chỉ đạo sáng suốt của Chính phủ, sự lãnh đạo, quản lý, điều hành của Hội đồng quản trị, Ban Tổng Giám đốc và sự nỗ lực phấn đấu của cán bộ công nhân viên trong toàn ngành. Ngày nay, NHNT Lào được biết đến là một trong những Ngân hàng mạnh nhất Lào và đang tiếp tục thực hiện dự án hiện đại hoá theo dự án hỗ trợ kỹ thuật của Việt Nam (công nghệ thông tin-IT) và hướng tới tăng năng lực hoạt động và tái cơ cấu lại chất lượng hoạt động kinh doanh ngân hàng...
Tuy vậy, trong thời gian tới vẫn còn nhiều khó khăn và thử thách cho nền kinh tế nước CHDCND Lào cũng như các doanh nghiệp trong nước khủng hưởng chính trị-xã hội trên thế giới và khu vực, những bất ổn về tình hình tài chính khu vực và thế giới vẫn chứa đựng nhiều nguy cơ phức tạp, tổng đầu tư xã hội ở mức thấp, cạnh tranh trên toàn bộ nền kinh tế và trong khu vực Ngân hàng nói riêng ngày càng quyết liệt...
Do đó, NHNT Lào trong thời gian tới phải đáp ứng nhiều yêu cầu vừa phải vượt qua những thử thách nội tại, vừa phải đủ sức tồn tại trong cạnh tranh, vừa phải nâng cao trình độ hoạt động để chuẩn bị cho môi trường hoạt động khắc nghiệt của những năm sắp tới bởi quá trình mở cửa và hội nhập đã đang đến sẽ đào thải những Ngân hàng không có khả năng tự vệ hoặc theo cơ chế quản lý cũ của Nhà nước trong những năm qua.
Mục tiêu chủ đạo trong những năm tới của NHNT Lào đó là “hướng tới khách hàng” và với đội ngũ cán bộ làm việc phải “Bản linh-thông minh-sáng tạo-hiệu quả”. Hoạt động Ngân hàng thời gian tới không chỉ là giới thiệu để