Dự Báo Những Yếu Tố Tác Động Và Phương Hướng Tạo Nguồn Cán Bộ, Công Chức Xã Người Dân Tộc Thiểu Số Ở Các Tỉnh Tây Nguyên Đến Năm 2020


Kinh. Để đảm bảo yêu cầu về trình độ cho CB, CC người DTTS, cần ưu tiên chỉ tiêu đào tạo, bồi dưỡng đối với nguồn là người DTTS.

Hai là, chính sách ưu tiên, hỗ trợ lâu dài, dàn trải của Đảng, Nhà nước đối với vùng đồng bào DTTS đang tạo ra tâm lý trông chờ, ỷ lại trong một bộ phận người DTTS ở Tây Nguyên

Bên cạnh sự đầu tư, hỗ trợ ngân sách rất lớn của Trung ương để phát triển KT-XH vùng Tây Nguyên, qua đó nhiều nội dung tạo nguồn cũng có điều kiện triển khai mở rộng, thì các văn bản liên quan đến xây dựng đội ngũ CB, CC các cấp cũng luôn nhấn mạnh vấn đề ưu tiên cơ cấu thành phần dân tộc, nhất là DTTS tại chỗ. Nhiều cấp uỷ địa phương mặc định quan điểm: trong mỗi đơn vị bắt buộc phải có người thuộc DTTS; nếu người đứng đầu chính quyền là người Kinh thì bí thư cấp uỷ phải là người DTTS v.v..

Tuy nhiên, tính tích cực, tự giác phấn đấu vươn lên của không ít đối tượng tạo nguồn người DTTS chưa cao, còn có biểu hiện tâm lý trông chờ, ỷ lại. Tâm lý đó xuất phát từ đặc điểm thụ động, khép kín của đồng bào, nhưng hiện nay, nó có phần từ chính những chính sách ưu đãi, hỗ trợ rất lớn của Đảng, Nhà nước đối với đồng bào các DTTS trong nhiều năm. Không ít CB, CC người DTTS hạn chế về phẩm chất, năng lực được tạo ra và hiện đang tồn tại trong bộ máy của HTCT một cách vững vàng nhờ sự ưu đãi, hỗ trợ đó.

Từ thực tế này, các cấp, các ngành cần sớm tổng kết, đánh giá lại hiệu quả của chính sách ưu đãi đối với đồng bào DTTS trong quá trình tạo nguồn CB, CC. Rà soát, đánh giá chất lượng CB, CC xã người DTTS hàng năm, cương quyết đưa ra khỏi bộ máy những người không đủ tiêu chuẩn. Làm tốt công tác tư tưởng để nâng cao nhận thức, loại trừ tâm lý ỷ lại vào sự bao cấp, nâng đỡ của Đảng, Nhà nước trong đội ngũ CB, CC người DTTS hiện nay.

Ba là, thiếu chính sách hỗ trợ phù hợp để thay thế CB, CC xã hạn chế về năng lực, trình độ bằng đội ngũ nguồn người DTTS đã đạt chuẩn

Khi chỉ tiêu biên chế CB, CC xã là cố định thì bài toán làm thế nào để

thay thế những CB, CC hạn chế về năng lực, trình độ bằng đội ngũ nguồn đã


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 203 trang tài liệu này.

đạt chuẩn đang thiếu lời giải thoả đáng do thiếu chính sách hỗ trợ hiệu quả. Nghị định Chính phủ cho phép mỗi xã, tuỳ theo loại 1, 2 hay 3 mà được bố trí tối đa từ 21 đến 25 CB, CC hưởng lương chuyên trách. Qua thời gian, số lượng CB, CC ở nhiều xã cơ bản đã ổn định, trong đó có cả những người không còn đáp ứng tốt yêu cầu công việc. Tuy nhiên, nếu không có “sự cố” gì quá đặc biệt, công chức sẽ làm việc cho đến tuổi nghỉ hưu, còn cán bộ sẽ “giữ chân” cho hết nhiệm kỳ 5 năm. Cơ hội để có một suất định biên đối với nguồn chưa là CB, CC rất khó và khá lâu dài, hạn chế động lực giúp nguồn phấn đấu. Ở xã Đạ Đờn (Lâm Hà, Lâm Đồng), nhiều con em DTTS quan niệm: học là để làm cán bộ, không làm cán bộ thì không học. Để đạt mục tiêu chuẩn hoá đội ngũ CB, CC xã người DTTS, phải đưa được người không thể đạt chuẩn ra khỏi bộ máy để mở đường cho nguồn đạt chuẩn vào. Huyện Lâm Hà trong Đề án “Xây dựng bộ máy tổ chức và cán bộ HTCT ở cơ sở từ năm 2008 đến năm 2015” đưa ra chủ trương giải quyết chế độ thôi việc hoặc nghỉ hưu đối với những trường hợp cán bộ chưa đào tạo đạt chuẩn. Cán bộ nghỉ việc được giải quyết các chế độ theo quy định hoặc tham gia đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện cho đến khi đủ điều kiện nghỉ hưu. Tuyển dụng, bố trí công chức dự nguồn có chuyên ngành đào tạo phù hợp làm việc tập sự bên cạnh cán bộ chuyên trách (chưa đủ chuẩn nhưng đang đương nhiệm), khi đủ điều kiện thì thay thế. Đề án của Lâm Hà không xa lạ với mong muốn của nhiều địa phương, nhưng không phải ở đâu cũng dễ dàng giải quyết được mâu thuẫn, vướng mắc này.

Như vậy, một mặt cần có một sự thay đổi đồng bộ về chính sách của Nhà nước đủ bù đắp chi phí sinh hoạt, học tập, giải trí của CB, CC cơ sở và gia đình họ để thu hút được nguồn nhân lực chất lượng cao vào làm việc. Mặt khác, để có thể đưa CB, CC hạn chế về năng lực, trình độ ra khỏi bộ máy, tạo “chỗ trống” thu hút nguồn nhân lực có chất lượng vào, phải tiến hành đồng thời nhiều giải pháp, trong đó cần khuyến khích, bù đắp về vật chất để đảm bảo nhu cầu sống cơ bản của CB, CC khi nghỉ việc.

Tạo nguồn cán bộ, công chức xã người dân tộc thiểu số ở các tỉnh Tây Nguyên giai đoạn hiện nay - 15


Bốn là, nguồn CB, CC xã người DTTS tại chỗ hạn chế về chất lượng, nguồn thu hút ngoài địa phương có chất lượng cao nhưng không yên tâm công tác lâu dài ở xã

Trong rất nhiều văn bản của các địa phương, nguồn tại chỗ luôn được ưu tiên, quan tâm. Ngay cả đối với các DTTS cùng tồn tại trên địa bàn, thì DTTS tại chỗ của Tây Nguyên cũng được ưu tiên hơn. Trước đây, nguồn để tạo nguồn CB, CC xã lấy từ thôn, buôn. Qua xây dựng phong trào quần chúng, những nhân tố tích cực là người DTTS ở các thôn, buôn được phát hiện, bồi dưỡng tạo thành nguồn CB, CC xã. Tuy phải tạo nguồn lâu dài, nhưng hiệu quả khá bền vững, những CB, CC người DTTS hiện thời đa phần được tạo ra từ nguồn này. Nhưng hiện nay, chất lượng nguồn nhân lực DTTS tại chỗ của các xã có phần kém hơn (về học vấn, khả năng ứng biến, kinh nghiệm quản lý kinh tế - xã hội…) so với người Kinh, người DTTS vùng đô thị và các DTTS từ phía Bắc vào.

Như vậy, nếu ưu tiên nhân lực DTTS tại chỗ thì việc đầu tư thời gian, công sức, kinh phí cho tạo nguồn CB, CC lớn hơn nhiều so với thu hút nguồn từ bên ngoài về. Nguồn là sinh viên người DTTS tại chỗ là đối tượng ưu tiên hàng đầu, nhưng ít có. Nguồn bên ngoài thì chất lượng cao, phong phú, nhưng ngẫu nhiên, tự phát, khả năng “giữ chân” không chắc. Chọn phương án nào hiệu quả nhất là vấn đề mà cấp uỷ đảng ở các địa phương phải suy nghĩ.

Để có đủ CB, CC, nhiều địa phương ban hành chính sách ưu đãi để thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao. Tuy nhiên, theo nhiều CB, CC đương nhiệm, số mới thu hút về ít kinh nghiệm, quá trình cống hiến chưa có, năng lực chưa bộc lộ. Cùng làm một công việc nhưng người mới thu hút về được hưởng chế độ cao hơn người tại chỗ là không hợp lý. Có nơi, khi số CB, CC mới được đưa về, số cũ ít hợp tác, bỏ mặc, đùn đẩy việc, gây xộc xệch trong bộ máy, bất bình về tư tưởng. Ngược lại, CB, CC mới thu hút về luôn mong muốn có một vị trí, một môi trường công tác và khoản thu nhập tương xứng với trình độ mà họ đã bỏ công đào tạo, nhưng thực tế ở cấp xã, các điều kiện đó đa phần không đáp ứng. Ban đầu họ hăng hái, quyết tâm làm việc để chứng tỏ mình và cũng để xứng với


những ưu đãi nhận được. Nhưng về sau, áp lực công việc, tác động của môi trường, nhu cầu muốn thay đổi v.v.. khiến không ít người phấn đấu chỉ để tìm đường đi lên (cấp trên), đi ra (khỏi xã).

Vậy, để nguồn CB, CC xã người DTTS thực sự phong phú và bền vững, bên cạnh việc ưu tiên tạo nguồn đối với người DTTS tại chỗ, cần có chính sách khuyến khích lợi ích vật chất song song với xây dựng môi trường công tác thuận lợi để thu hút và “giữ chân” người tài từ nơi khác đến.

Những mâu thuẫn, vướng mắc ở Tây Nguyên liên quan đến công tác tạo nguồn CB, CC xã người DTTS nói trên tồn tại đã nhiều năm. Nó có nguyên nhân của những tác động khách quan, nhưng trước hết vẫn là yếu tố chủ quan của cơ chế, chính sách, của những khó khăn thực tế, những giới hạn, rào cản trong nhận thức, hành động của các cấp chủ thể và đối tượng tạo nguồn. Đã có một số địa phương bước đầu tìm tòi giải quyết được vấn đề, nhưng không ít nơi lúng túng, thậm chí bỏ mặc. Học tập kinh nghiệm, sáng tạo và quyết liệt hơn trong đổi mới nội dung, cơ chế, chính sách tạo nguồn sẽ là giải pháp để tháo gỡ vướng mắc của những vấn đề đặt ra hiện nay trong công tác tạo nguồn CB, CC xã người DTTS ở Tây Nguyên.


Tiểu kết chương 2


Tạo nguồn CB, CC xã người DTTS ở Tây Nguyên trong thời gian qua đã có nhiều tiến bộ, ưu điểm: Việc cụ thể hoá tiêu chuẩn, cơ cấu nguồn CB, CC xã người DTTS đang từng bước được triển khai, xuất phát từ quy định về tiêu chuẩn CB, CC cấp xã của Đảng và Nhà nước và điều kiện thực tế ở địa phương; việc xây dựng các phong trào quần chúng ở cơ sở để rèn luyện, phát hiện nguồn, kết nạp đảng viên mới nhằm tạo nguồn CB, CC xã người DTTS, nhất là vùng có đông đồng bào DTTS diễn ra thường xuyên; sự nghiệp giáo dục - đào tạo, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài vùng DTTS được đầu tư, duy trì và phát triển; việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ các mặt cho nguồn CB, CC được triển khai quyết liệt, góp phần quan trọng trong chuẩn hoá nguồn gần, tạo cơ sở chuẩn


hoá nguồn xa; việc thu hút, tuyển chọn, tiếp nhận nguồn người DTTS vào tổ chức, điều động, luân chuyển, bố trí vào các chức danh CB, CC, cán bộ không chuyên trách, cán bộ dự bị được thực hiện thường xuyên, đi dần vào nề nếp; việc quy hoạch nguồn cán bộ xã người DTTS theo từng chức danh được triển khai hàng năm; một số chính sách hỗ trợ tạo nguồn CB, CC xã người DTTS được các cấp, các ngành quan tâm, mang lại hiệu quả tạo nguồn rõ rệt.

Tuy nhiên, tạo nguồn CB, CC xã người DTTS ở Tây Nguyên cũng còn không ít hạn chế, vướng mắc. Việc cụ thể hoá tiêu chuẩn, cơ cấu nguồn CB, CC xã người DTTS để định hướng cho tạo nguồn đang được triển khai, nhưng chưa phổ biến ở nhiều địa phương. Các phong trào quần chúng còn hạn chế về số lượng và chất lượng. Sự nghiệp giáo dục - đào tạo, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài vùng DTTS được đầu tư, duy trì và phát triển, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ các mặt cho nguồn triển khai quyết liệt, có nhiều thành tựu, nhưng cũng chưa đáp ứng hết yêu cầu của đời sống chính trị, xã hội. Thu hút, tuyển chọn, tiếp nhận nguồn người DTTS vào tổ chức, điều động, luân chuyển, bố trí vào các chức danh đi dần vào nề nếp, nhưng số lượng còn hạn chế, mục tiêu tạo nguồn chưa rõ. Việc quy hoạch nguồn xa chưa được quan tâm. Một số chính sách hỗ trợ tạo nguồn CB, CC xã người DTTS còn xa mới đáp ứng được yêu cầu tạo nguồn chất lượng và bền vững.

Kinh nghiệm rút ra từ quá trình tạo CB, CC xã người DTTS ở Tây Nguyên thời gian qua là: phải nhận thức đúng, đầy đủ về vấn đề tạo nguồn CB, CC xã người DTTS ở Tây Nguyên để có cơ sở tổ chức tạo nguồn sát hợp với tình hình thực tế, phát huy được vai trò của các lực lượng tham gia; các cấp uỷ đảng, chính quyền phải quyết tâm cao độ trong việc xây dựng chủ trương, định hướng chỉ đạo, điều hành, quản lý, phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng các lực lượng tiến hành công tác tạo nguồn; huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của Nhà nước và toàn xã hội cho công tác tạo nguồn CB, CC xã người DTTS; thường xuyên giám sát, kiểm tra đối với từng nội dung tạo nguồn cụ thể; nghiêm túc sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm và điều chỉnh kịp thời để đảm bảo mục tiêu.


Chương 3

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐẨY MẠNH TẠO NGUỒN CÁN BỘ, CÔNG CHỨC XÃ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở CÁC TỈNH TÂY NGUYÊN ĐẾN NĂM 2020


3.1. DỰ BÁO NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG VÀ PHƯƠNG HƯỚNG TẠO NGUỒN CÁN BỘ, CÔNG CHỨC XÃ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở CÁC TỈNH TÂY NGUYÊN ĐẾN NĂM 2020

3.1.1. Dự báo những yếu tố tác động đến việc tạo nguồn cán bộ, công

chức xã người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên trong thời gian tới

3.1.1.1. Yếu tố thuận lợi

- Trong những năm tới, nhiều chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước trong việc xây dựng HTCT, ổn định an ninh, quốc phòng, thúc đẩy phát triển toàn diện KT-XH vùng Tây Nguyên tiếp tục được triển khai. Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên đến năm 2020 do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tháng 7-2012 đề ra mục tiêu phát triển Tây Nguyên ổn định và bền vững, tạo chuyển biến căn bản về phát triển toàn diện kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, bảo vệ môi trường, bảo đảm an ninh quốc phòng, “từng bước đưa Tây Nguyên trở thành vùng động lực phát triển kinh tế của cả nước” [104]. Mới đây, Hội nghị Trung ương bảy (khoá XI) ban hành Kết luận một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, kiện toàn hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở, trong đó đề cập đến việc điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ của đảng bộ, HĐND, UBND xã phù hợp với tình hình thực tiễn và yêu cầu nhiệm vụ; thực hiện bố trí bí thư cấp uỷ đồng thời là chủ tịch HĐND hoặc UBND xã, bố trí một số chức danh chủ chốt không phải người địa phương; sửa đổi quy định về CB, CC cấp xã theo hướng từ nhiệm kỳ 2015-2020, cán bộ hết nhiệm kỳ không được bầu vào chức danh mới, nếu không đủ điều kiện, tiêu chuẩn thì được nghỉ công tác, hưởng chế độ trợ cấp một lần, tăng cường kiêm nhiệm công việc, khoán quỹ phụ cấp để giảm số cán bộ không


chuyên trách, tăng thu nhập cho CB, CC đương nhiệm; nâng cao chất lượng đội ngũ CB, CC theo hướng tinh giản, chất lượng; thu hút người tài, cán bộ trẻ, có trình độ đại học, đào tạo, bồi dưỡng quân nhân hoàn thành nghĩa vụ quân sự... bổ sung cho CB, CC cấp xã. Đây là cơ hội để Tây Nguyên huy động được nguồn lực từ tất cả các cấp, các ngành Trung ương đến cơ sở cho việc phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo, nâng cao mặt bằng dân trí, chất lượng dân số, đồng thời góp phần đổi mới, củng cố HTCT, xây dựng đội ngũ CB, CC cơ sở vững mạnh.

- Cùng với những thành tựu quan trọng của công cuộc đổi mới, cộng đồng các DTTS Tây Nguyên đang có nhiều chuyển biến tích cực. Sự phát triển về kinh tế, sự giao lưu, hội nhập văn hoá các dân tộc trên địa bàn Tây Nguyên, trong đó có các DTTS tại chỗ, tạo nên sự thay đổi nhận thức có tính bước ngoặt trong đồng bào. Vai trò văn hoá tinh thần là động lực của sự phát triển được khẳng định. Phát triển giáo dục đào tạo, nâng cao trình độ học vấn cho con em đang trở thành quan điểm phát triển trong một bộ phận không nhỏ các gia đình đồng bào DTTS… Qua đây, nguồn cho công tác tạo nguồn CB, CC xã sẽ nhiều hơn.

- Sự phát triển của hệ thống thông tin truyền thông (báo, đài, truyền hình, Internet, điện thoại…) sẽ tiếp tục tác động rất tích cực đến đông đảo thế hệ trẻ trong cộng đồng các DTTS ở Tây Nguyên. Từ đây, nhận thức về đời sống chính trị - xã hội của các em phong phú hơn; nhu cầu được đóng góp, cống hiến cũng nảy sinh và phát triển… là yếu tố thuận lợi, nhân tố tích cực để các cấp, các ngành nắm bắt cho công tác tạo nguồn CB, CC về sau.

3.1.1.2. Khó khăn, thách thức

- Những khó khăn về điều kiện sống, môi trường công tác của vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, vùng đặc biệt khó khăn ở Tây Nguyên chưa thể một sớm một chiều giải quyết. Những hạn chế của mặt bằng phát triển kinh tế, giáo dục - đào tạo; những hệ quả của lối sống khép kín, tự ti hay ỷ lại của một bộ phận đồng bào DTTS v.v.. là những trở ngại gây tác động tiêu cực nhất đến nhận thức, nhu cầu và trách nhiệm của các gia đình đồng bào DTTS trong việc đầu tư cho con em học tập nâng cao trình độ và tham gia công tác xã hội. Chế độ, chính sách của


Đảng, Nhà nước đối với CB, CC cơ sở nói chung, đối với công tác tạo nguồn CB, CC xã người DTTS nói riêng vẫn không đủ hấp dẫn để các đối tượng, nhất là nguồn xa yên tâm tham gia vào chuỗi quá trình tạo nguồn CB, CC của cơ sở.

- Những vướng mắc, hạn chế, yếu kém, tiêu cực trong quản lý KT-XH của các cơ quan Nhà nước trên địa bàn Tây Nguyên kéo dài nhiều năm chưa được giải quyết triệt để, trở thành những “vấn nạn”, ảnh hưởng đến đời sống, tình cảm, niềm tin của đồng bào các DTTS. Vấn đề quản lý đất đai, tài nguyên môi trường, tình trạng dân di cư tự do, nạn chặt phá, lấn chiếm đất rừng vẫn diễn biến rất phức tạp. Tình trạng học sinh bỏ học tiếp tục xảy ra; số học sinh, sinh việc tốt nghiệp chưa có việc làm khá đông; lao động thiếu việc làm mang tính thời vụ phổ biến. Các chương trình hỗ trợ của Chính phủ nhìn chung vẫn còn những vướng mắc, triển khai chậm, như dự án cấp điện cho các buôn làng DTTS; hỗ trợ đất ở, đất sản xuất, nhà ở và nước sinh hoạt cho đồng bào DTTS nghèo; công tác giao rừng, khoán bảo vệ rừng chưa hiệu quả; chủ trương “trả đất” cho đồng bào DTTS chưa được triển khai quyết liệt... Niềm tin của đồng bào DTTS đối với tổ chức đảng, chính quyền có sự suy giảm, là điều cản trở con em của họ đến với các dự án tạo nguồn CB, CC xã.

- Tình trạng đói giáp hạt, nghèo và tái nghèo trong các hộ đồng bào DTTS ảnh hưởng rất lớn đến khả năng phát triển thể lực và trí lực của lực lượng dân số trẻ hiện vẫn chưa kiểm soát được. Tỉnh Gia Lai đầu năm 2011 có 79.417 hộ nghèo (27,58%) trong đó 62.867 hộ DTTS, chiếm hơn 79% tổng số hộ nghèo. Có 4 huyện (Kông Chro; Krông Pa; Kbang; Ia Pa) và 66 xã tỷ lệ hộ nghèo trên 50% [186]. Tỉnh Đắk Nông, năm 2004 có 56% hộ nghèo, dù đã quyết liệt giảm, nhưng năm 2011 vẫn còn 29,25%, trong đó đồng bào DTTS là 47,25%, riêng đồng bào DTTS tại chỗ là 61,11% [130]. Đầu năm 2012, Đắk Lắk vẫn còn 14,8% số hộ nghèo. Trong đó, hộ nghèo DTTS chiếm hơn 30%, có 5 huyện tỷ lệ nghèo trên 40%, và còn 12 thôn, buôn tỷ lệ hộ nghèo 100%. Ở Kon Tum, đầu năm 2011 tỷ lệ hộ nghèo 33,36%, trong đó hộ DTTS chiếm hơn 90% [18]. Lâm Đồng là tỉnh có tỷ lệ hộ nghèo thấp nhất trong khu vực (9,1%), nhưng trong số đó có 29% hộ đồng bào DTTS, và không ít hộ thuộc diện người có công, sống ở nông thôn, vùng sâu,

Xem tất cả 203 trang.

Ngày đăng: 23/09/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí