Những Yêu Cầu Về Phát Triển Công Nghệ Thông Tin Đối Với Doanh Nghiệp Vừa Và Nhỏ Ở Việt Nam

cường năng lực cạnh tranh, khả năng hội nhập của mỗi doanh nghiệp và của cả nền kinh tế.

1.2. WTO và Thương mại điện tử

TMĐT là một hình thái kinh doanh dựa trên khoa học công nghệ tiên tiến và là một phần quan trọng của kinh tế số. TMĐT là một biểu hiện rõ ràng của toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Sự phát triển của TMĐT gắn chặt với sự phát triển của nhiều lĩnh vực dịch vụ khác như viễn thông, phân phối, tài chính, pháp lý cũng như các lĩnh vực đầu tư và bảo vệ sở hữu trí tuệ.

Ngay từ khi mới thành lập, WTO đã quan tâm tới hình thái TMĐT với việc thông qua Quyết định của các Bộ trưởng WTO về TMĐT toàn cầu.(37) Việc Việt Nam hội nhập khá nhanh vào nền kinh tế thế giới trong những năm qua có tác động rất lớn tới sự phát triển mạnh mẽ của TMĐT. Sự kiện Việt Nam trở thành thành viên của

WTO là một điểm mốc quan trọng trong tiến trình tự do hóa thương mại của Việt Nam. Với tư cách là thành viên chính thức của WTO, một mặt, Việt Nam được hưởng đầy đủ các quyền lợi như các thành viên khác. Mặt khác, Việt Nam có trách nhiệm thực hiện các nghĩa vụ qui định trong hệ thống pháp luật của WTO cũng như các cam kết của mình trong Nghị định thư gia nhập tổ chức thương mại toàn cầu này.

Liên quan đến TMĐT, Việt Nam cần nghiên cứu và tuân thủ những quyết định hoặc tuyên bố của các Bộ trưởng WTO về TMĐT. Những văn bản này không xuất hiện trong tài liệu “Các văn kiện gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới của Việt Nam” nhưng Việt Nam vẫn có nghĩa vụ thi hành theo quy định tại “Nghị định thư về việc gia nhập của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.(38)

Tại Hội nghị Bộ trưởng WTO lần thứ hai, tổ chức tại Geneva tháng 5 năm 1998, lần đầu tiên WTO đã đánh giá sự phát triển nhanh chóng của TMĐT và những cơ hội mới mà TMĐT tạo ra. Đồng thời, các thành viên WTO đã thông qua một quyết định quan trọng, đó là quyết định không thành viên nào được áp đặt thuế nhập khẩu đối với việc truyền dữ liệu điện tử. Đây là quyết định nền tảng để tránh


(37) Tại trang chủ của WTO: www.wto.org, menu “ Các chủ đề thương mại” (Trade Topics) gồm 16 chủ đề, TMĐT là một trong các chủ đề này, các chủ đề khác là Hàng hóa, Dịch vụ, Sở hữu trí tuệ, Đầu tư, Giải quyết tranh chấp…

(38) Nguồn: Báo cáo TMĐT năm 2007 – Bộ Công Thương.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 104 trang tài liệu này.

tạo ra những rào cản đối với TMĐT giữa các thành viên. Tới tháng 11 năm 2001, tại Doha (Quatar), Hội nghị Bộ trưởng WTO lần thứ tư đã diễn ra thành công. Hội nghị đã khẳng định lại cam kết không áp đặt thuế nhập khẩu đối với việc truyền dữ liệu điện tử. Vòng đàm phán Doha diễn ra hết sức phức tạp. Theo dự kiến ban đầu, vòng đàm phán này sẽ kết thúc và cuối năm 2004. Tuy nhiên, sự khác biệt về quan điểm và quyền lợi giữa các thành viên rất sâu sắc. Cùng với việc Trung Quốc trở thành thành viên chính thức của WTO, nhóm các nước thành viên đang phát triển đã tập hợp lực lượng và thể hiện rõ hơn vị thế đàm phán. Ngoài ra, sự bế tắc trong vấn đề tự do hóa thương mại nông sản và giảm mạnh trợ cấp trong nông nghiệp khiến cho vòng đàm phán không tiến triển. Trong bối cảnh đó, các hoạt động triển khai Chương trình làm việc về TMĐT của Đại Hội đồng và các cơ quan liên quan cũng trì trệ. Tuy nhiên, các Bộ trưởng vẫn nhất trí duy trì thể chế đã được thiết lập ngay sau khi Hội nghị Bộ trưởng lần thứ hai để tiếp tục triển khai Chương trình làm việc về TMĐT và “duy trì hiện trạng không áp đặt thuế nhập khẩu đối với việc truyền dữ liệu điện tử cho tới khi tổ chức Hội nghị Bộ trưởng lần tiếp theo”.

Chương trình làm việc về TMĐT của WTO rất rộng, bao quát nhiều lĩnh vực và các cơ quan chuyên môn. Trong quá trình làm việc, nhiều khía cạnh liên quan tới TMĐT đã được xem xét, bao gồm các khía cạnh liên quan tới thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, sở hữu trí tuệ và phát triển. Ngoài việc thu được những lợi ích trực tiếp từ các quy định trong Chương trình làm việc của WTO về TMĐT, nhiều cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển TMĐT trong dài hạn.(39)

Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam - 11

Như vậy, TMĐT đã được Tổ chức Thương mại Thế giới quan tâm để tạo ra cơ chế thống nhất và minh bạch cho các các hoạt động TMĐT. Hiện nay, Chương trình làm việc về TMĐT vẫn chưa hoàn thành, dự đoán khi vòng đàm phán Doha khởi động trở lại, các nước thành viên sẽ thỏa thuận được cơ chế về phát triển TMĐT. Do đó, Việt Nam phải tăng cường ứng dụng CNTT và phát triển TMĐT để


(39)Nguồn: Báo cáo TMĐT năm 2007 – Bộ Công Thương.

nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp, đặc biệt là DNVVN nhằm hòa nhập với xu hướng phát triển của kinh tế thế giới.

2. Những yêu cầu về phát triển công nghệ thông tin đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam

Trong những năm gần đây, chúng ta chứng kiến sự phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ của xu thế toàn cầu hóa, nhất là trong lĩnh vực kinh tế. Xu thế này mở ra nhiều cơ hội, đồng thời cũng đặt ra cho các quốc gia trước sự lựa chọn không dễ dàng: đứng ngoài xu thế đó thì bị cô lập và tụt hậu, tham gia thì phải ứng phó với sự cạnh tranh gay gắt. Tuy nhiên, xu hướng chung là các quốc gia lớn nhỏ tham gia ngày càng nhiều vào quá trình hợp tác và liên kết khu vực, liên kết quốc tế và kinh tế, thương mại và nhiều lĩnh vực hoạt động khác.

Trong xu thế chung này, không những các khu vực, các quốc gia mà cả DNVVN ở mỗi quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ cũng chịu tác động trực tiếp của cạnh tranh ngày càng gay gắt. Đặc biệt là sau khi gia nhập WTO, sự cạnh canh khốc liệt giữa các doanh nghiệp, những thách thức về chất lượng, hiệu quả, việc cắt giảm chi phí trong sản xuất kinh doanh, các vấn đề liên quan đến đối tác và mối tương quan giữa nhà cung cấp và người tiêu dùng đòi hỏi doanh nghiệp phải chấp nhận sự thay đổi trong phương thức kinh doanh, tìm hiểu phương thức để làm sao có việc ứng dụng CNTT có hiệu quả nhất, mở rộng các hình thức thông tin, liên lạc để bán sản phẩm và tạo được dịch vụ tốt nhất.

Như vậy, một yêu cầu đầu tiên về tăng cường ứng dụng CNTT đối với DNVVN ở Việt Nam hiện nay là tăng cường ứng dụng CNTT trong một môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt. Nếu doanh nghiệp này áp dụng được phương thức kinh doanh mới thì đối thủ của họ cũng có thể làm theo. Hơn thế nữa, môi trường cạnh tranh mở rộng ra phạm vi toàn cầu, đối thủ cạnh tranh là những doanh nghiệp, tập đoàn lớn đã có công nghệ hiện đại, trình độ ứng dụng CNTT cao. Do đó, yêu cầu về phát triển ứng dụng CNTT trở nên cấp thiết và đòi hỏi có sự đầu tư thích đáng để biến CNTT thành công cụ hữu hiệu nâng cao năng lực cạnh tranh trong môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Tuy nhiên, nhiều DNVVN vẫn chưa thực sự sẵn sàng cho ứng dụng CNTT. Đối với một số ngành, khi gia nhập WTO, doanh

nghiệp muốn xuất hàng hóa sang châu Âu, Mỹ, Nhật cần phải cung cấp đầy đủ thông tin về xuất xứ hàng hóa. Muốn vậy, doanh nghiệp phải hình thành hệ thống thông tin từ nơi cung cấp nguyên liệu đến đơn vị thu mua, đơn vị chế biến, đóng gói và xuất khẩu. Những yêu cầu như thế cần có sự hỗ trợ của CNTT. Nếu không đầu tư cho CNTT ngay từ bây giờ, doanh nghiệp có thể bỏ lỡ nhiều cơ hội làm ăn.

Yêu cầu thứ hai về phát triển CNTT đối với DNVVN là phải tăng cường ứng dụng CNTT để giảm chi phí. Trong điều kiện lạm phát và khủng hoảng kinh tế như hiện nay, các doanh nghiệp gặp phải những khó khăn trong các mặt: sản xuất, chi trả lương, quảng bá tiếp thị, v.v... Để giải quyết những khó khăn trên, việc cắt giảm chi phí tối đa là điều mà các doanh nghiệp đang làm để tiết kiệm chi phí kinh doanh. Tuy nhiên, cắt giảm như thế nào để không ảnh hưởng đến tình hình sản xuất, kinh doanh, sự tăng trưởng và vị thế của doanh nghiệp không phải là vấn đề đơn giản. Trong bối cảnh chung đó, đầu tư cho ứng dụng CNTT cũng bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, doanh nghiệp cần xác định những lợi ích lâu dài của việc ứng dụng CNTT mang lại. Đó là khả năng tăng năng suất, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh nhờ giảm được số lao động và tăng hiệu quả trong xử lý công việc. Bên cạnh đó, khủng hoảng kinh tế chính là thời điểm để các nhà lãnh đạo doanh nghiệp và tổ chức xem xét lại việc làm thế nào tận dụng tối đa các nguồn lực. CNTT có thể đóng vai trò quan trọng trong việc giúp các đơn vị ứng phó với môi trường kinh doanh đầy khó khăn này. Thời gian này, có nhiều tổ chức và doanh nghiệp tập trung vào việc cắt giảm và hạn chế các rủi ro có thể xảy ra. Hiện nay có rất nhiều công nghệ hiện đại giúp cắt giảm chi phí đồng thời gia tăng hiệu quả và năng suất hoạt động. Ví dụ như công nghệ phần mềm máy chủ ảo, phần mềm giúp các doanh nghiệp quản lý điện năng, v.v... Khủng hoảng không đồng nghĩa với cắt giảm chi tiêu cho CNTT. Trái lại, các doanh nghiệp cần tập trung đầu tư cho những công nghệ có thể phục vụ cho việc khắc phục những ảnh hưởng của khủng hoảng.

Như vậy, tăng cường ứng dụng CNTT chính là một biện pháp cắt giảm chi phí hiệu quả chứ không phải là một khoản đầu tư vô ích. Đồng thời, CNTT cũng giúp DNVVN tiến gần đến thị trường và khách hàng, phục vụ khách hàng được tốt hơn. Do đó, các DNVVN cần tăng cường ứng dụng CNTT để giảm chi phí, mang

lại hiệu quả kinh doanh, đồng thời rút ngắn khoảng cách số với các doanh nghiệp lớn.‌

II. CÁC GIẢI PHÁP CỤ THỂ

1. Nhóm giải pháp tăng cường công nghệ thông tin để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp

1.1. Tăng cường đầu tư hạ tầng kỹ thuật để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực

- yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp

Để tăng cường ứng dụng CNTT trong doanh nghiệp, mấu chốt thành công không chỉ nằm ở khâu đào tạo kỹ năng CNTT cho người lao động mà còn thể hiện ở khả năng và điều kiện để họ thực hành, ứng dụng những kỹ năng đó trong công việc hàng ngày. Do đó, đầu tư cho hạ tầng kỹ thuật chính là điều kiện cần để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực - yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.

DNVVN cần xây dựng cho mình một hệ thống thông tin mạnh, ổn định, an toàn và hiệu quả. Để làm được điều đó, DNVVN cần chú trọng đầu tư hạ tầng kỹ thuật CNTT ở những mảng sau:

1.1.1. Đầu tư cho trang thiết bị cho ứng dụng công nghệ thông tin

Trang thiết bị cho ứng dụng CNTT bao gồm máy vi tính, trang thiết bị về mạng, v.v... Hiện nay, tỷ lệ doanh nghiệp trang bị máy tính ở các doanh nghiệp Việt Nam khá cao. Tuy nhiên, vẫn còn một số ít doanh nghiệp chưa có đầy đủ trang thiết bị cho ứng dụng CNTT. DNVVN cần đầu tư trang thiết bị, tiến tới 100% DNVVN có trang bị máy tính và gia tăng tỷ lệ nhân viên sử dụng máy tính thường xuyên trong công việc. Những yêu cầu về trang thiết bị sử dụng trong doanh nghiệp:

Đảm bảo tính thống nhất: có thể nâng cấp và mở rộng linh hoạt trong tương lai. Ví dụ như xác lập tiêu chuẩn cho hệ thống máy tính trong công ty. Thay vì mỗi máy tính một nhà cung cấp, một loại, đến khi cần sửa chữa thay thế thì rất khó có thể mua sắm thiết bị cho đồng bộ.

Đảm bảo tính hiện đại: tất cả các trang thiết bị trong doanh nghiệp phải được trang bị hiện đại, cấu hình cao, khả năng cung cấp thông tin nhanh chóng đồng thời đáp ứng tối đa các yêu cầu của người sử dụng.

Đảm bảo tính mở, dễ phát triển của hệ thống: hệ thống có thể thích nghi và phát triển theo nhu cầu, điều đó có nghĩa là thêm bớt các thiết bị khi có nhu cầu mở rộng được thực hiện thuận lợi, có thể xử lý các thiết bị bị sự cố mà không ảnh hưởng đến máy tính khác.

Đảm bảo tính an toàn, bảo mật: các thiết bị phải được xây dựng theo các tiêu chuẩn nhất định về điều kiện an toàn bảo mật, có chế độ phân quyền truy nhập thông tin và quản lý chặt chẽ với từng đối tượng sử dụng.

Đảm bảo tính dễ sử dụng: giao diện thân thiện với người sử dụng, các chương trình ứng dụng dễ sử dụng. Đảm bảo tính ổn định, hoạt động liên tục: các trang thiết bị phải đồng bộ theo hệ thống, làm việc ổn định và liên tục trong thời gian dài.

1.1.2. Xây dựng, phát triển và duy trì hệ thống mạng ổn định trong doanh nghiệp vừa và nhỏ

Ở góc độ hạ tầng kỹ thuật, máy vi tính và mạng nội bộ là hai thiết bị công nghệ không thể thiếu cho việc ứng dụng CNTT và TMĐT. Hiện nay, mạng nội bộ LAN đã khá phổ biến với các doanh nghiệp. Tuy nhiên vẫn còn những DNVVN chưa xây dựng được hệ thống mạng nội bộ cho mình. Xây dựng mạng nội bộ hoàn thiện là điều kiện tiên quyết để mang lại hiệu quả trong việc ứng dụng CNTT vào phục vụ các hoạt động quản lý và kinh doanh trong doanh nghiệp. Do đó, doanh nghiệp cần xây dựng mạng nội bộ để khai thác hết khả năng của CNTT. Đồng thời, với các DNVVN có nhiều trụ sở nằm tại nhiều địa điểm khác nhau cần đẩy mạnh xây dựng mạng WAN, Intranet hay Extranet để kết nối các mạng của mình và với các doanh nghiệp khác nhằm chia sẻ thông tin một cách dễ dàng hơn, an toàn hơn. Ba loại mạng này khá phổ biến ở các công ty lớn trên thế giới nhưng thực sự vẫn là công nghệ mới với nhiều doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là DNVVN.

Ngoài ra, doanh nghiệp có thể xây dựng mạng riêng ảo (Virtual private network) nhằm thỏa mãn nhu cầu kết nối từ xa giữa nhân viên với văn phòng cũng như giữa các văn phòng cách xa về địa lý. Việc xây dựng mạng này đem đến nhiều lợi ích cho công ty, đặc biệt là giảm chi phí so với thiết lập mạng WAN truyền thống.

1.1.3. Tăng cường, đầu tư hợp lý cho phần mềm ứng dụng CNTT và TMĐT

Sau khi đầu tư trang thiết bị cơ bản cho ứng dụng CNTT, DNVVN cần tăng cường đầu tư cho phần mềm để khai thác hiệu quả những thiết bị phần cứng đã đầu tư.

Tuy nhiên, tình trạng vi phạm bản quyền lại khá phổ biến ở Việt Nam. Điều này cản trở Việt Nam trong việc thực hiện Công ước Berne và các cam kết trong WTO, đồng thời cũng làm các công ty nước ngoài ngại đầu tư vào Việt Nam. Do đó, khi đầu tư phần mềm, DNVVN nên mua các phần mềm có bản quyền. DNVVN sẽ nhận được nhiều lợi ích hơn khi mua phần mềm bản quyền, ví dụ như được hỗ trợ miễn phí, được cập nhật các bản nâng cấp bảo mật, tránh được các rủi ro khi sử dụng phần mềm, v.v... để từ đó nâng cao năng suất lao động, tạo ra một môi trường kinh doanh lành mạnh trên cơ sở tôn trọng công sức của người khác.

Khi tiến hành trang bị phần mềm, vấn đề không nhỏ mà các DNVVN gặp phải chính là vấn đề tài chính. Một trong những cách thức để doanh nghiệp giải quyết khó khăn tài chính, nâng cao hiệu quả là sử dụng các phần mềm mã nguồn mở. Lợi ích mà các doanh nghiệp có được khi sử dụng phần mềm mã nguồn mở là giảm tổng chi phí sở hữu từ những yếu tố sau:

- Miễn phí bản quyền phần mềm

- Miễn phí các phiên bản nâng cấp trong toàn bộ vòng đời sử dụng sản phẩm

- Giảm chi phí phát triển phần mềm đáp ứng theo yêu cầu nghiệp vụ (sử dụng phần mềm, module có sẵn để phát triển tiếp, sửa đổi điều chỉnh cho phù hợp với nghiệp vụ)

- Kéo dài thời gian sử dụng, tái sử dụng các phần cứng, thiết bị trong khi vẫn đảm bảo hiệu năng toàn hệ thống

- Mức chi tiết kiệm khoảng 75%-80% so với phần mềm có bản quyền ngay trong năm đầu tiên.

- Tăng tính thương hiệu cho doanh nghiệp khi giới thiệu được với cộng đồng, đối tác, khách hàng (đặc biệt là ngoài nước) là doanh nghiệp đã chuyển đổi sang phần mềm mã nguồn mở và 100% không vi phạm bản quyền.

Một vấn đề nữa là hiện nay nhiều DNVVN vẫn tiến hành mua phần mềm mà không lập kế hoạch trước, chỉ dựa trên nhu cầu trước măt. Dần dần DNVVN sẽ

trang bị nhiều phần mềm khác nhau để vận hành. Điều này dễ dẫn tới rủi ro, gây ngừng trệ hoạt động và tăng chi phí cho việc thống nhất và bảo dưỡng hệ thống. Vì vậy, khi đầu tư, DNVVN nên chú ý tới một số vấn đề sau:

Thứ nhất, DNVVN nên chọn những giải pháp có khả năng nâng cấp và linh hoạt. Cơ sở hạ tầng CNTT linh hoạt và dễ thích ứng sẽ đảm bảo hệ thống kinh doanh của doanh nghiệp phát triển đúng hướng. Điều này rất quan trọng, cho phép doanh nghiệp quy mô vừa phản ứng nhanh trước các cơ hội kinh doanh mới, với nhu cầu và sự thay đổi của khách hàng trong các điều kiện hoạt động.

Thứ hai, DNVVN nên ứng dụng chuẩn mở để tích hợp dễ dàng. Không như những công nghệ độc quyền, ứng dụng phần mềm dựa trên chuẩn mở giúp doanh nghiệp giảm độ phức tạp và tổng chi phí sở hữu, lại có thể tích hợp các ứng dụng khác dễ dàng hơn.

Thứ ba, DNVVN nên ứng dụng giải pháp phù hợp với lĩnh vực hoạt động. Doanh nghiệp sẽ có nhiều lợi ích hơn khi ứng dụng các giải pháp được xây dựng dựa trên mục tiêu kinh doanh, đáp ứng nhu cầu đặc biệt của lĩnh vực đang hoạt động. Các giải pháp này tập trung thúc đẩy năng suất của doanh nghiệp tại những chu trình kinh doanh chủ chốt. Chúng cũng được chuyên biệt theo ngành, vốn có hàng trăm bước xử lý được hiệu chỉnh sẵn cho phép doanh nghiệp hoạt động tốt nhất, rút ngắn thời gian đầu tư, chi phí thấp, có thể dự đoán trước và cuối cùng sẽ thúc đẩy nhanh thời gian tiếp cận thị trường.

Tóm lại, các DNVVN hãy bắt đầu những khoản đầu tư một cách khiêm tốn nhưng phải có chiến lược - vạch ra yêu cầu của doanh nghiệp trong thời điểm hiện tại và tương lai. DNVVN nên lựa chọn một nhà cung cấp với chiến lược về công nghệ rõ ràng để có thể hỗ trợ cơ sở hạ tầng CNTT trong dài hạn.

1.2. Tăng cường đào tạo ngoại ngữ kết hợp với đào tạo đồng bộ về chuyên môn, về công nghệ thông tin để nâng cao năng lực dự báo của doanh nghiệp vừa và nhỏ

Nguồn nhân lực đối với bất kì doanh nghiệp nào cũng là yếu tố quyết định thành công của doanh nghiệp đó trên thương trường. Xu thế của lợi thế cạnh tranh trong tương lai không còn phụ thuộc nhiều vào tài nguyên, vốn-tài chính, mà bắt

Xem tất cả 104 trang.

Ngày đăng: 11/09/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí