Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam - 12

đầu phụ thuộc rất lớn vào hàm lượng tri thức chứa đựng trong giá trị sản phẩm. Các nhân tố về con người luôn được coi là lợi thế cạnh tranh không thể sao chép được.

Trong bối cảnh nước ta ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, ngoại ngữ đã trở thành yêu cầu bức thiết cho các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, nhu cầu giao tiếp, giao thương với nước ngoài đòi hỏi trình độ ngoại ngữ nhất là Anh ngữ của cán bộ công chức phải được nâng cao. Đồng thời, việc ứng dụng CNTT cũng đòi hỏi đội ngũ nhân viên phải có trình độ ngoại ngữ nhất định.

Tuy nhiên, trình độ học vấn, đặc biệt là trình độ ngoại ngữ của các DNVVN ở Việt Nam còn nhiều hạn chế. Các DNVVN đã đóng góp rất nhiều vào việc giải quyết công ăn việc làm cho nhân dân nhưng có một đặc điểm là các DNVVN sử dụng rất nhiều lao động phổ thông, chưa qua đào tạo. Vì vậy, trình độ ngoại ngữ, tin học cũng như trình độ chuyên môn của nhân viên còn thấp và chưa đồng đều. Bên cạnh đó, một thực tế là không ít cán bộ, công chức, sinh viên có trình độ ngoại ngữ từ khá trở lên, sau một thời gian làm việc ở các DNVVN trong nước đã xin nghỉ để chuyển sang các công ty liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, các tổ chức phi chính phủ có đại diện tại Việt Nam,v.v... những nơi có thu nhập cao hơn nhiều lần cũng như có cơ hội thường xuyên để sử dụng, trau dồi, nâng cao vốn kiến thức của mình. Từ đó dẫn đến tình trạng ở các DNVVN người giỏi ngoại ngữ đã hiếm lại càng thêm hiếm. Do vậy, các DNVVN cần tăng cường đào tạo về ngoại ngữ cho nhân viên kết hợp với đào tạo đồng bộ về chuyên môn, về CNTT để phát triển nguồn lực toàn diện.

Có nhiều hình thức để đào tạo ngoại ngữ và CNTT cho đội ngũ nhân viên doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể gửi nhân viên đi học hoặc mời các trung tâm chuyên nghiệp về đào tạo cho doanh nghiệp. Cùng với sự phát triển của CNTT, hiện nay một hình thức đào tạo vừa phù hợp với ngân sách của DNVVN vừa tận dụng được ứng dụng CNTT trong học tập là hình thức đào tạo trực tuyến (e-learning). Tuy nhiên, dù hình thức đào tạo nào thì điều quan trọng là các nhân viên phải nhận thức được ý nghĩa và lợi ích của việc đào tạo này để phối hợp nâng cao hiệu quả đào tạo.

Nhiều DNVVN ở Việt Nam rất yếu kém trong tiếp cận thông tin và các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh. Nguyên nhân vấn đề này một phần là do chất lượng nguồn nhân lực thấp, hạn chế về trình độ chuyên môn, tin học, ngoại ngữ của giám đốc và đội ngũ quản lý doanh nghiệp, một phần là do đầu tư cho hệ thống thông tin thấp, chưa có phương tiện kỹ thuật nên chưa theo kịp diễn biến thị trường. Vì thế quyết định kinh doanh được đưa ra chỉ dựa vào kinh nghiệm và phán đoán cảm tính, đây là điểm yếu nhất của các DNVVN Việt Nam trước áp lực cạnh tranh quốc tế. Do đó, việc ứng dụng CNTT sẽ giúp doanh nghiệp tiếp cận với các phương tiện kỹ thuật hiện đại, giúp phân tích thông tin một cách chính xác, giảm thiểu rủi ro, từ đó nâng cao năng lực dự báo của các DNVVN, giúp doanh nghiệp phản ứng nhanh hơn với các biến động thị trường. Đồng thời, việc bồi dưỡng ngoại ngữ kết hợp với đào tạo đồng bộ về chuyên môn về CNTT giúp các nhà kinh doanh nắm bắt được cơ hội để thực hiện và phát triển kinh doanh dài hạn.

2. Nhóm giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ trên cơ sở tăng cường phát triển thương mại điện tử

2.1. Phát triển thương mại điện tử để tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm và dịch vụ

Khái niệm TMĐT dù đã trở nên khá phổ biến trên các phương tiện truyền thông, lợi ích khi phát triển TMĐT đã được khẳng định nhưng khái niệm này vẫn còn xa vời với nhiều DNVVN, đặc biệt là DNVVN ở các vùng nông thôn. Phát triển TMĐT đã trở thành xu hướng tất yếu của thời đại. Do đó, khi tham gia vào thương mại quốc tế, Việt Nam cần phát triển TMĐT để tận dụng những cơ hội kinh doanh mà TMĐT mang lại.

Những lợi ích của phát triển TMĐT ngày càng rõ rệt. TMĐT giúp doanh nghiệp quảng bá hình ảnh, tiếp thị cho một thị trường toàn cầu với chi phí thấp nhất. Với TMĐT, DNVVN không phải tốn kém nhiều cho việc thuê cửa hàng, mặt bằng, đông đảo nhân viên phục vụ, doanh nghiệp cũng không phải đầu tư nhiều cho kho chứa, v.v... DNVVN cũng tiết kiệm được chi phí in ấn catalogue, chi phí in ấn quảng cáo, và cả chi phí gửi bưu điện những ấn phẩm này. Từ những chi phí có thể

tiết kiệm được, doanh nghiệp sẽ hạ giá thành sản phẩm, dịch vụ. Từ đó thúc đẩy khách hàng mua hàng, tăng doanh thu.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 104 trang tài liệu này.

Để đẩy mạnh ứng dụng TMĐT, vấn đề đầu tiên là vấn đề về nhận thức của các DNVVN. Cũng đã có nhiều DNVVN biết đến lợi ích của TMĐT và đã áp dụng có hiệu quả, tuy nhiên vẫn còn rất nhiều DNVVN chưa quan tâm đầu tư cho TMĐT. Do đó, các DNVVN cần chủ động tìm hiểu lợi ích của TMĐT, coi đây là một trong những nhiệm vụ gắn với việc xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn. Trong bối cảnh ứng dụng CNTT và Việt Nam đã gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới, sức ép cạnh tranh từ việc mở cửa thị trường sẽ rất lớn nên việc tìm hiểu lợi ích của TMĐT để nâng cao sức cạnh tranh là cấp thiết.

Tiếp theo, các DNVVN cần xác định mô hình TMĐT thích hợp và xây dựng kế hoạch triển khai mô hình tại doanh nghiệp mình. Doanh nghiệp cần thấy rằng việc triển khai TMĐT khó có thể rập khuôn theo các mô hình sẵn có. Do vậy, DNVVN cần tìm hiểu, nghiên cứu và tự chọn cho mình mô hình TMĐT phù hợp với quy mô doanh nghiệp, loại hình kinh doanh, trình độ cán bộ và khả năng tài chính của mình. Trên cơ sở mô hình đã chọn, các DNVVN cần xây dựng kế hoạch triển khai, bao gồm kế hoạch tài chính trên cơ sở đầu tư vào thiết bị và công nghệ, đầu tư nguồn lực con người, v.v...

Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam - 12

2.2. Phát triển thương mại điện tử để rút ngắn thời gian đàm phán, ký kết hợp đồng và tiết kiệm chi phí

Phát triển TMĐT thông qua mạng Internet mang lại cho các doanh nghiệp một công cụ đặc biệt hữu hiệu để thực hiện giao dịch.

Công đoạn đầu tiên trong giao dịch thương mại là tìm kiếm đối tác, sản phẩm, dịch vụ. Công việc này sẽ bớt nan giải đi rất nhiều với một thị trường không biên giới khi doanh nghiệp phát triển TMĐT. Doanh nghiệp có thể tìm kiếm đối tác một cách dễ dàng hơn thông qua các công cụ tìm kiếm trên Internet, đặc biệt là đối tác ở các nước phát triển, nơi có tỷ lệ phổ cập Internet rất cao. Doanh nghiệp chỉ cần vào một trong những công cụ tìm kiếm, sàng lọc là đã có trong tay một danh sách đối tác tiềm năng. Để xem thông tin chi tiết về một đối tác, cũng như sản phẩm, dịch vụ mà họ cung cấp, doanh nghiệp có thể trực tiếp vào website của họ. So với

cách làm truyền thống là qua danh bạ, điện thoại, catalogue, phương pháp mới này nhanh hơn, chính xác hơn, tiết kiệm và hiệu quả hơn rất nhiều. Doanh nghiệp cũng có thể so sánh các tham số của sản phẩm khá dễ dàng trên Internet.

Sau khi đã tìm kiếm được đối tác, công đoạn tiếp theo là thỏa thuận hợp đồng. Một trong những điểm quan trọng nhất trong công đoạn thỏa thuận hợp đồng là xác định giá. Với Internet, việc xác định giá cho một sản phẩm và dịch vụ cụ thể nào đó khá dễ dàng và nhanh chóng. Doanh nghiệp có thể gửi thư hỏi giá, thư báo giá đến đối tác, đưa sản phẩm, dịch vụ của mình trên website để tất cả những ai quan tâm có thể xem được. Doanh nghiệp cũng có thể trao đổi, đàm phán trực tiếp với đối tác ở nước ngoài, cũng như trong nước qua các công cụ trên Internet như website, e-mail, v.v... mà không tốn tiền điện thoại đường dài. Như vậy, việc phát triển TMĐT sẽ giúp doanh nghiệp tiết kiệm được đáng kể thời gian đàm phán, ký kết hợp đồng.

Trong giai đoạn hiện nay, các DNVVN chưa có đủ điều kiện đầu tư lớn cho việc ứng dụng TMĐT. Do đó, để tận dụng ưu thế của TMĐT trong việc quảng bá, tìm kiếm khách hàng, rút ngắn thời gian giao dịch, v.v... các DNVVN cần tích cực tham gia vào các sàn TMĐT loại hình giao dịch B2B và B2C của Việt Nam cũng như của các nước khác trên thế giới. Đặc biệt là các DNVVN nên tận dụng những sàn giao dịch TMĐT B2B có những hình thức hỗ trợ không thu phí đối với một số doanh nghiệp tham gia (ví dụ như Cổng thương mại điện tử quốc gia ECVN với tên miền www.ecvn.com). Bên cạnh đó, một giải pháp để rút ngắn thời gian ký kết hợp đồng là đẩy mạnh giao dịch điện tử, đẩy mạnh ứng dụng chữ ký điện tử. Chữ ký điện tử được sử dụng trong các giao dịch điện tử, là thông tin đi kèm theo dữ liệu nhằm mục đích xác định người chủ của dữ liệu đó.

Bên cạnh đó, một vấn đề quan trọng đảm bảo cho các giao dịch TMĐT được thực hiện an toàn, nhanh chóng là vấn đề an ninh bảo mật cho hệ thống thông tin để xóa bỏ tâm lí e ngại, tạo niềm tin cho khách hàng khi tiến hành giao dịch qua mạng.

3. Nhóm giải pháp khác

3.1. Nhóm giải pháp về phía Nhà nước

3.1.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, đẩy mạnh triển khai các văn bản pháp luật về thương mại điện tử và ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông

Cho đến hết năm 2008, các nghị định hướng dẫn Luật Giao dịch điện tử và phần lớn các nghị định hướng dẫn Luật Công nghệ thông tin đã được ban hành. Các bộ, ngành hữu quan cũng đã ban hành nhiều Thông tư, văn bản hướng dẫn thực hiện chi tiết các nghị định này như Thông tư số 09/2008/TT-BCT ngày 21 tháng 7 năm 2008 của Bộ Công Thương hướng dẫn Nghị định Thương mại điện tử về cung cấp thông tin và giao kết hợp đồng trên website TMĐT, Thông tư số 12/2008/TT- BTTTT ngày 30 tháng 12 năm 2008 của Bộ Thông tin và Truyền thông hướng dẫn thực hiện một số nội dung của Nghị định số 90/2008/NĐ-CP ngày 13 tháng 08 năm 2008 của Chính phủ về chống thư rác, v.v...

Tuy nhiên, TMĐT là lĩnh vực còn mới mẻ lại dựa trên nền tảng công nghệ tiên tiến, để các văn bản quy phạm pháp luật nói trên thực sự đi vào cuộc sống, tạo môi trường quản lý và hỗ trợ hiệu quả cho hoạt động các doanh nghiệp, các cơ quan quản lý nhà nước cần nỗ lực hơn nữa trong việc triển khai thực hiện các văn bản pháp luật đã ban hành. Trong triển khai cần chú trọng tới hoạt động hướng dẫn, phổ biến nội dung của các văn bản pháp luật để các doanh nghiệp hiểu và thực hiện đúng các quy định đã ban hành, xem đây là một khâu then chốt giúp triển khai và hoàn thiện môi trường pháp lý về TMĐT.

3.1.2. Nhà nước tạo điều kiện cho phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin - viễn thông

Việc phát triển hạ tầng CNTT – Viễn thông nhằm tăng số người tiếp cận với các phương tiện điện tử và mạng viễn thông như Internet. Từ đó, tạo cơ hội phát triển TMĐT dễ dàng. Một trở ngại trong phát triển TMĐT ở nước ta là tốc độ đường truyền và chi phí cao. Do đó, kiến nghị đối với Nhà nước là giảm tình trạng độc quyền trong viễn thông. Trong tình trạng nước ta còn thiếu vốn thì Nhà nước có thể kêu gọi đầu tư tư nhân và các công ty nước ngoài để phát triển hạ tầng CNTT – Viễn thông.

Bên cạnh đó, ngành công nghiệp phần mềm cũng cần được đầu tư phát triển. Phát triển công nghiệp phần mềm để giảm giá thành, nâng cao chất lượng phần mềm trong nước, tiết kiệm chi phí mua phần mềm từ nước ngoài giúp các DNVVN có đủ khả năng tài chính để ứng dụng CNTT bằng các phần mềm nội địa mà vẫn đạt hiệu quả.

3.2.3. Nhà nước cần tăng cường đào tạo nhân lực cho ứng dụng công nghệ thông tin và thương mại điện tử trong tương lai

Yếu tố con người là yếu tố quyết định thành công của bất cứ hoạt động nào. Hiện nay, nguồn nhân lực có chất lượng cho phát triển CNTT và TMĐT ở Việt Nam vẫn rất khan hiếm. Việc ứng dụng CNTT hiện đại vào hoạt động kinh doanh và TMĐT là xu thế phát triển tất yếu trong môi trường kinh doanh toàn cầu hóa. Khoảng trống lớn về nhân lực có kiến thức CNTT và TMĐT sẽ là khó khăn cho các doanh nghiệp Việt Nam, làm giảm sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Vì vậy, đào tạo nhân lực cho CNTT và TMĐT phải được quan tâm và đầu tư đúng mức, trước tiên là sự chỉ đạo từ phía cơ quan Nhà nước.

Nguồn nhân lực cho CNTT và TMĐT trong doanh nghiệp có thể là các sinh viên được đào tạo chính quy tại các trường đại học, cao đẳng hoặc có thể là các nhân viên được công ty đào tạo nhằm đáp ứng nhu cầu mới. Tuy nhiên, những nhân viên do các công ty đào tạo chỉ là đáp ứng nhu cầu khan hiếm trước mắt và không được đào tạo một cách bài bản. Nếu tính đến nhu cầu và lợi ích dài hạn, nguồn nhân lực cho ứng dụng CNTT và TMĐT cần được đào tạo một cách bài bản ngay từ khi còn ở các trường đại học. Điều này đòi hỏi Nhà nước phải xây dựng kế hoạch đào tạo và nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực cho ứng dụng CNTT nhằm tạo ra một đội ngũ lao động có chất lượng cho xã hội.

Để có nguồn lực TMĐT có chất lượng, Nhà nước cần xây dựng chương trình đào tạo theo hai hướng:

- Hướng đào tạo các nhà kỹ thuật TMĐT: tạo ra nguồn nhân lực trụ cột trong việc khai thác cơ sở hạ tầng, thiết kế hệ thống mạng, quản lý quá trình vận hành của hệ thống thông tin và có thể xây dựng phần mềm ứng dụng, thiết kế website cho doanh nghiệp tham gia TMĐT. Hướng đào tạo chính cho các nhà kỹ thuật TMĐT là

tập trung đào tạo chuyên sâu về CNTT đồng thời phải song song đào tạo kiến thức về thương mại, kinh doanh và quản trị đủ để có thể ứng dụng CNTT trong từng giai đoạn, trong công việc mua bán trên mạng.

- Hướng đào tạo các nhà quản trị TMĐT: chuyên sâu về quản trị kinh doanh trong thương mại kết hợp với các kỹ năng khai thác trên mạng để có thể thực hiện giao dịch TMĐT và có thể vạch ra các chiến lược, kế hoạch và chương trình kinh doanh của công ty.

Bên cạnh đó, cần kết hợp đào tạo ngoại ngữ cho nguồn nhân lực cntt để bắt kịp với nền công nghệ hiện đại của nước ngoài, thực hiện việc “đi tắt đón đầu” hiệu quả hơn.

3.1.4. Phát huy hơn nữa vai trò của Việt Nam trong các định chế kinh tế quốc tế

Nhà nước cũng như các DNVVN cần tích cực, chủ động hợp tác quốc tế để tiếp thu kiến thức, kinh nghiệm của thế giới và tìm kiếm các nguồn tài trợ.

Về hợp tác quốc tế về TMĐT, từ năm 2006 đến nay, Việt Nam đã chủ động từng bước tham gia vào các hoạt động hợp tác về TMĐT trong các diễn đàn đa phương như APEC, UNCITRAL, UN/CEFACT, UNCTAD... và song phương với các quốc gia, vùng lãnh thổ như Hoa Kỳ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan...

Trong giai đoạn 2009-2010 Việt Nam cần tăng cường hơn nữa việc tham gia vào hoạt động của các tổ chức quốc tế đa phương, trong đó tập trung vào APEC, UNCITRAL, WTO để hỗ trợ việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về TMĐT, thực hiện tốt, có hiệu quả các cam kết quốc tế về TMĐT mà Việt Nam tham gia. Trong năm 2009, chủ động tham gia sâu vào Chương trình Bảo vệ dữ liệu cá nhân trong TMĐT của APEC, giúp các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận dần với TMĐT quốc tế.

Hợp tác song phương với các quốc gia tiên tiến về TMĐT và có quan hệ thương mại đầu tư lớn với Việt Nam như Hòa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, v.v... cũng cần được đẩy mạnh hơn nữa nhằm tìm kiếm các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp giảm chi phí giao dịch, hành chính, nâng cao năng lực cạnh tranh trong bối cảnh kinh tế thế giới đang suy giảm hiện nay.

Ngoài ra, cần đẩy mạnh hỗ trợ các doanh nghiệp, Hiệp hội trong việc tham gia hoạt động của tổ chức quốc tế về TMĐT như Liên minh các Tổ chức cấp chứng nhận website TMĐT uy tín Châu Á-Thái Bình Dương (ATA), Liên minh TMĐT Châu Á-Thái Bình Dương (PAA), v.v... từng bước nâng cao uy tín của doanh nghiệp Việt Nam trong hoạt động TMĐT.

3.2. Nhóm giải pháp về phía doanh nghiệp

3.2.1. Tiếp tục nâng cao nhận thức về vai trò của ứng dụng công nghệ thông tin để khai thác thông tin trong nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế

Các cuộc khảo sát tình hình ứng dụng CNTT trong doanh nghiệp cho thấy không doanh nghiệp nào phủ nhận vai trò của CNTT, nhưng nhận thức về lợi ích của ứng dụng CNTT đến mức độ nào, vai trò của CNTT trong chu trình sản xuất kinh doanh đến đâu thì hầu hết các doanh nghiệp còn rất mơ hồ.

Nhiều DNVVN chưa thực sự xem CNTT là tác nhân chủ chốt trong hoạt động kinh doanh. Họ chỉ xem việc đầu tư cho CNTT như là khoản đầu tư thêm chứ chưa được đưa vào kế hoạch. Trong hàng loạt các nguyên nhân được đưa ra như: thiếu vốn, hạ tầng CNTT còn nghèo nàn, dịch vụ CNTT kém, thiếu chính sách khuyến khích, v.v... thì yếu tố nhận thức vẫn là quan trọng nhất. Các DNVVN mới chỉ hiểu được lợi ích của ứng dụng CNTT nhưng chưa thực sự nhìn nhận đó là chi phí bắt buộc nên họ chỉ cố gắng giảm càng nhiều càng tốt. Điều này dẫn đến sự đầu tư nửa vời, hiệu quả ứng dụng chưa cao. Do đó, nâng cao nhận thức cho các DNVVN hiện nay vẫn rất cần thiết.

Trong vài năm trở lại đây, các tổ chức, ban ngành đã thực hiện nhiều chương trình dự án nhằm hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao nhận thức, đẩy mạnh ứng dụng CNTT. Một trong những giải pháp đã thực hiện là đề án “Hỗ trợ doanh nghiệp ứng dụng CNTT phục vụ hội nhập và phát triển giai đoạn 2005-2010” do VCCI chủ trì nhằm hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam, chủ yếu là DNVVN, nâng cao nhận thức về CNTT; đào tạo nguồn nhân lực; xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin kinh tế; khuyến khích, thúc đẩy doanh nghiệp ứng dụng CNTT để tăng hiệu quả sản xuất, kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế. Đề án này cũng triển khai các chương trình đào tạo kỹ năng ứng dụng CNTT cho đội ngũ cán bộ

Xem tất cả 104 trang.

Ngày đăng: 11/09/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí