làm gia tăng lãi suất chưa điều chỉnh kiếm được trên một tài sản nhưng không phản ánh trong chi phí cơ hội như hiện được đo. Do vậy, việc làm các thời hạn nợ và tài sản phù hợp nhau để giảm rủi ro lãi suất, việc nắm giữ các tài sản và nợ với đặc tính thanh khoản khác nhau, việc thực hiện những khoản cho vay với rủi ro tín dụng khác nhau đều là điểm chung trong ngành ngân hàng nhưng có thể không được phản ánh đúng trong việc áp dụng cách tiếp cận chi phí người sử dụng.
Khó khăn cuối cùng là tính nhạy cảm rò rệt đối với việc biến các đầu ra thành các đầu vào và ngược lại với những thay đổi nhỏ trong dữ liệu hoặc giả thiết. Khi Fixler và Zieschang (1990) thay đổi chi phí cơ hội giả thiết đối với tất cả các mục ghi trong bảng cân đối giữa lãi suất trung bình trên các khoản cho vay (phương pháp của Cơ quan Phân tích kinh tế [BEA]) và trung bình của lãi suất trên cả các khoản cho vay lẫn tiền gửi (phương pháp của Cơ quan Thống kê Liên hợp quốc [UNSO]), nhiều thay đổi về dấu của chi phí người sử dụng xảy ra. Thêm vào đó, gần như một nửa các nhóm tài chính của họ (chủ yếu là các nhóm nhỏ hơn) thay đổi giữa đầu vào và đầu ra trên thời kỳ 5 năm, thậm chí không có thay đổi phương pháp tính toán chi phí cơ hội. Giả sử kỳ vọng công nghệ ngân hàng vẫn không đổi đủ để cho việc xác định các đầu vào và các đầu ra không thay đổi quá thường xuyên.
2.2.1.4. Cách tiếp cận giá trị gia tăng
Cách tiếp cận giá trị gia tăng khác với cách tiếp cận tài sản và cách tiếp cận chi phí người sử dụng ở chỗ nó coi tất cả các nhóm tài sản và nợ là có một số đặc trưng đầu ra chứ không phân biệt các đầu vào với các đầu ra theo kiểu loại trừ. Các nhóm có giá trị gia tăng lớn, như được đánh giá sử dụng một nguồn bên ngoài của phân bổ chi phí vận hành, được sử dụng như những đầu ra quan trọng. Các nhóm khác được xem là chủ yếu biểu thị hoặc các đầu ra không quan trọng, các sản phẩm trung gian hoặc các đầu vào, phụ thuộc vào các đặc tính của nhóm. Một sự khác nhau có ý nghĩa với cách tiếp cận chi phí người sử dụng là cách tiếp cận giá trị gia tăng sử dụng một cách tường minh dữ liệu chi phí vận hành chứ không phải xác định những chi phí này một cách không tường minh như một phần của số thu về hay chi phí không được tính đến bởi chênh lệch giữa các dòng tài chính được đo và chi phí cơ hội biên duyên.
Việc áp dụng cách tiếp cận giá trị gia tăng trong những nghiên cứu chi phí gần đây khác về ngành ngân hàng (ví dụ, Berger, Hanweck, và Humphrey, 1987) xác định các nhóm chủ yếu của tiền gửi được sản xuất ra (không kỳ hạn, có kỳ hạn và tiết kiệm) và các khoản cho vay (bất động sản, thương mại, theo đợt) là những đầu ra quan trọng, bởi vì chúng chịu trách nhiệm cho đại đa số giá trị gia tăng. Các vốn mua vào (vốn ngân
hàng nhà nước mua vào, các chứng chỉ tiền gửi lớn, tiền gửi ngoại tệ, các khoản phải trả khác đối với tiền vay) được coi là các đầu vào tài chính cho quá trình làm trung gian, bởi vì chúng đòi hỏi lượng rất nhỏ các đầu vào vật lý (lao động và vốn). Về phía tài sản, các trái phiếu chính phủ và những nhà đầu tư cho vay khác được coi là các đầu ra không quan trọng, vì giá trị gia tăng của chúng cũng rất thấp.
Từ trình bày trên, tác giả thấy rằng các độ đo đầu ra hiện tại cũng có những thiếu sót khác nhau. Rủi ro là một khía cạnh khác của các khoản cho vay của ngân hàng, nhưng những khác nhau trong nó không được xét đến trong hầu hết các độ đo đầu ra; một ngân hàng có thể có khả năng tăng đầu ra xét về mặt bảng cân đối hay lợi nhuận bằng cách tăng rủi ro. Sự đa dạng không hề được xét đến. Có lẽ có thể thích hợp hơn là sử dụng một độ đo doanh thu, bao trùm những tổn thất trên chu kỳ, với những dự phòng như là đầu ra âm. Một cách khác, như Chames và các cộng sự (1990) đã gợi ý, những dự phòng và tổn thất cho vay thực có thể được coi là các đầu vào. Tổng quát hơn, không có độ đo được xác định nào của đầu ra có vẻ phản ánh chất lượng của dịch vụ ngân hàng mà rủi ro (hay thất bại) của nó chỉ có một. Các khía cạnh khác bao gồm tính thanh khoản và an toàn đối với tiền gửi; kỳ hạn, các điều khoản và trạng thái an toàn đối với các khoản cho vay. Ít nhất một số trong các khía cạnh này có thể được đo một cách khách quan, có lẽ sử dụng "các chỉ số giá cả lạc quan";
Những khó khăn khác - mà việc đo chúng khó khăn hơn - bao gồm thực tế là các độ đo khác nhau không xét đến những mối quan hệ liên thời gian rất quan trọng trong ngân hàng, vì vậy thay vì chỉ là một chỉ tiêu ẩn của dịch vụ cung cấp, lãi suất có thể chỉ đầu tư bởi ngân hàng đó trong mối quan hệ dài hạn; có thể có những chệch đối với các độ đo đầu ra khi cạnh tranh tăng. Cuối cùng, các độ đo tư nhân và xã hội của đầu ra có thể khác nhau do các ngoại ứng.
Có thể bạn quan tâm!
- Lý Luận Về Hiệu Quả Hoạt Động Và Đánh Giá Tác Động Của Các Nhân Tố Vĩ Mô Tới Hiệu Quả Hoạt Động Của Ngân Hàng Thương Mại
- Các Hoạt Động Cơ Bản Của Ngân Hàng Thương Mại
- Hiệu Quả Hoạt Động Và Đo Lường Hiệu Quả Hoạt Động Của Ngân Hàng Thương Mại
- Mô Tả Và Lựa Chọn Mô Hình Để Đo Lường Hiệu Quả
- Mô Hình Dea Ước Lượng Hiệu Quả Của Các Ngân Hàng
- Mô Hình Xác Định Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Tới Hiệu Quả (Tobit)
Xem toàn bộ 144 trang tài liệu này.
2.2.2. Cơ sở lý thuyết về đo lường năng suất của ngân hàng
2.2.2.1. Năng suất riêng phần
Các tỷ số năng suất riêng (liên hệ đầu ra với chỉ một đầu vào), như đầu ra trên một giờ công, thường được sử dụng như những thay thế cho năng suất nhân tố tổng hợp, mặc dù như sẽ thấy các độ đo này có nhiều nhược điểm. Về mặt này, nhiều nghiên cứu đã lập luận rằng có thể thu được những hiểu biết sâu sắc và hữu ích về năng suất ngân hàng bằng việc xem xét các tỷ số kế toán như quy mô tài sản và doanh thu hoạt động trên một nhân viên. Ví dụ, Fanning (1981) phát hiện rằng, mặc dù trên những độ đo như vậy năng suất của các ngân hàng thương mại của Anh vào đầu những năm 1980 tăng lên, nó vẫn thua kém thời kì trước, gợi ý rằng tồn tại sự sư thừa trong ngành ngân hàng Anh.
Những nghiên cứu khác tập trung vào năng suất tương đối của ngành ngân hàng so với các ngành khác của nền kinh tế. Ví dụ, Baumol và Oates (1972) gợi ý rằng khu vực dịch vụ vốn có sức kháng cự với tiến bộ công nghệ, liên tục làm tăng năng suất các ngành khác trong nền kinh tế. Do vậy, nếu tiền công tương đối trong các ngành khác nhau vẫn giữ nguyên, chi phí trong khu vực dịch vụ phải tăng nhanh hơn trong các ngành khác trong nền kinh tế ("bệnh dịch chi phí của Baumol"). Kinsella (1973) đã thử áp dụng giả thiết này vào ngành ngân hàng ở Ai len thời kỳ 1970-1971 bằng cách so sánh năng suất lao động của nó với năng suất của ngành chế tác các ngành dịch vụ xét trên tổng thể. Các kết quả của nghiên cứu này ủng hộ giả thiết của Baumol, với năng suất ngân hàng chỉ tăng 5 phần trăm trên thời kỳ đó, so với 30 phần trăm đối với ngành dịch vụ xét và 140 phần trăm trong ngành chế tác. Cũng trong bối cảnh đó, Revell (1980) đánh giá những xu hướng chi phí trong các ngân hàng từ 18 nước OECD từ 1964 đến 1977. Nghiên cứu này cho một kết luận ít chê trách hơn, vì trong khi các ngân hàng được thấy là hơi chậm trễ sau khu vực hàng hóa về tăng năng suất, chúng không ở vị trí tuyệt vọng của dịch vụ được nghiên cứu bởi Baumoll. Độ đo được sử dụng để đi tới kết luận này là tỷ số của chi phí vận hành trên tổng bảng cân đối, hay khối lượng kinh doanh. Revell kỳ vọng tỷ số này không đổi nếu năng suất trong ngân hàng tăng nhanh như trong ngành chế tác, thay vì nó được thấy là tăng. Revell gợi ý rằng sự trễ đằng sau ngành chế tác có thể được giải thích bởi thực tế là trong ngành ngân hàng hầu hết những cải tiến công nghệ có khuynh hướng là cải thiện 1 lần và không lặp lại; còn sự tăng năng suất trong ngành chế tác là một quá trình liên tục hơn nhiều. Ủng hộ kết luận của Revell rằng năng suất ngân hàng không chậm chạp như các nghiên cứu trước đây gợi ý, Tschoegl và các cộng sự (1984) đã phát hiện ra rằng, trong các ngân hàng khắp thế giới, chi phí nhân công trên đơn vị tài sản và trên số các chi nhánh giảm rò rệt. Nghiên cứu của họ kiểm soát đối với cả tính kinh tế theo quy mô lẫn hỗn hợp sản phẩm bằng cách chọn một mẫu các ngân hàng trên thế giới năm 1979. Nhờ vậy, họ có thể kết luận rằng những thay đổi quan sát thấy là do tăng năng suất.
Mặc dù các nghiên cứu năng suất từng phần này cho thấy một số nhìn nhận sâu vào hiệu quả ngân hàng, có nhiều vấn đề then chốt làm hạn chế khả năng của chúng trong đánh giá hiệu quả hoạt động. Cụ thể, như đã chỉ ra bởi Frazer (1982), phân tích tỷ số kế toán được Fanning ủng hộ có thể chỉ cho một độ đo hữu ích về năng suất của nhân viên nếu các ngân hàng đang kinh doanh giống nhau và trong môi trường không khác nhau. Điều này giải thích vì sao các ngân hàng Anh (vướng nhiều vào các dịch vụ chuyển tiền sử dụng nhiều lao động) đươc thấy ở vị trí thấp trong danh sách quốc tế. Tổng quát hơn, tất cả các nghiên cứu năng suất riêng bị mất hiệu lực bởi chúng không
có khả năng xét đến chi phí của việc tạo thay đổi bên trong, chẳng hạn, năng suất lao động; nếu một ngân hàng thay thế lao động bằng máy móc để thực hiện các chức năng hàng ngày, nó có thể tăng năng suất lao động. Như một biến thể của năng suất riêng, một số nghiên cứu đã tập trung sự chú ý vào hoạt động "chuyển nhượng thanh toán" như một thay thế cho những thay đổi trong năng suất ngân hàng qua thời gian. Frazer đã giải thích rằng đây là một lĩnh vực mà đối với nó có dữ liệu dài hạn tin cậy. Nghiên cứu của Frazer bao trùm 20 năm đã phát hiện rằng số lượng các mục thanh toán được xử lý bởi các ngân hàng lớn ở Anh đã tăng 4 lần, trong khi số lượng cán bộ chỉ gấp đôi. Trong khi đó, đáp lại ý kiến của Kinsella rằng năng suất ngân hàng tụt nhiều sau ngành chế tác, nghiên cứu của Gamb (1976) về hệ thống thanh toán ở Mỹ gợi ý rằng tăng trưởng năng suất trong việc xử lý séc cao hơn so với tăng trưởng năng suất trong nền kinh tế Mỹ xét tổng thể giữa 1962-72. Tuy nhiên, mặc dù cách tiếp cận này có thể khắc phục vấn đề "tính so sánh được", nó không xét đến "những chênh lệch năng suất nhân tố tổng hợp (TFP)", mà cũng không hiệu chỉnh đối với những khác biệt về đòi hỏi nhân tố xét về vốn vật lý và tài chính trên một lao động.
2.2.2.2. Năng suất nhân tố tổng hợp
Năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) là một sự tổng quát hóa của tỷ số năng suất nhân tố riêng (PFP). Nó mở rộng khái niệm PFP bằng việc bao quát nhiều đầu ra và nhiều đầu vào trong một tỷ số năng suất đơn lẻ. Vấn đề trung tâm của việc đo TFP là phương pháp luận sử dụng để ước lượng các trọng số sử dụng để kết hợp (hay đánh giá trị) các đầu vào và đầu ra. Ưu điểm của độ đo TFP so với các độ đo PFP là tạo điều kiện so sánh năng suất một cách nhất quán trên toàn bộ các đầu ra và đầu vào của các ngân hàng, trong khi không có gì đảm bảo rằng tỷ số PFP tương đương sẽ cho một bức tranh nhất quán về kết quả năng suất. Tuy nhiên, việc tính toán TFP qua thời gian và giữa các ngành thì khó bởi vì các tỷ lệ đầu vào nhân tố không là hằng số qua thời gian hoặc giữa các ngành và đóng góp của chúng vào đầu vào khó bóc tách. Một phần vì lý do đó, hầu hết các công trình nghiên cứu nêu ra dưới đây tập trung vào việc so sánh ngang giữa các ngân hàng.
Những nghiên cứu gần nhất tập trung vào độ đô TFP có khuynh hướng sử dụng các hàm sản xuất đường biên ước lượng. Cách đo này thay thế các độ đo TFP kinh tế lượng truyền thống như trong Solow (1957), chủ yếu bởi vì các độ đo này dựa trên các hàm sản xuất trung bình bình phương nhỏ nhất thông thường (OLS) làm chệch các kết quả hiệu quả. Nghĩa là, sự gần với một hàm sản xuất OLS không nhất thiết có nghĩa là năng suất cực đại. Thêm nữa, tiếp cận OLS không thể tách hiệu quả kỹ thuật với thay đổi công nghệ. Ngoài ra, nó giả thiết không thực tế rằng tồn tại các điều kiện thị trường
cạnh tranh và rằng chỉ có một đầu ra được sản xuất Berg (1991). Các nghiên cứu đường biên có thể được phân loại theo cách chỉ định và ước lượng đường biên. Ví dụ, đường biên có thể hoặc có thể không được chỉ định như một hàm tham số của các đầu vào. Thêm nữa, một mô hình thống kê tường minh của mối quan hệ giữa đầu ra quan sát và đường biên có thể hoặc có thể không được chỉ định. Cuối cùng, bản thân đường biên có thể được chỉ định hoặc tất định hoặc ngẫu nhiên. Từ những hoán vị khác nhau có thể có, cách tiếp cận đường biên phi tham số tất định đã phát triển nhất, và rất nhiều công trình nghiên cứu ứng dụng trong ngân hàng đã sử dụng nó. Cách tiếp cận này được đi tiên phong bởi Farrell (1957). Cách tiếp cận của ông là phi tham số theo nghĩa nó không dựa trên một mô hình tường minh nào của đường biên hay của mối quan hệ của các quan sát với đường biên. Thay vì như vậy một bao lồi của các tỷ số đầu vào-đầu ra quan sát được xây dựng bằng kỹ thuật quy hoạch tuyến tính; được hỗ trợ bởi một tập hợp con của mẫu với phần còn lại của các điểm mẫu nằm trong nó.
2.3. Đánh giá tác động của các nhân tố vĩ mô đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Sự ra đời của Luật Đầu tư nước ngoài đã tạo môi trường pháp lý cao hơn và là đòn bẩy để thu hút vốn nước ngoài vào Việt Nam. Đặc biệt là thị trường với xấp xỉ 100 triệu dân, các nhà đầu tư nước ngoài càng ngày càng chú ý nhiều hơn tới Việt Nam. Từ những năm 2006 và 2007, các nhà đầu tư nước ngoài bắt đầu mua cổ phẩn để trở thành nhà đầu tư chiến lược tại các ngân hàng trong nước. Nhưng với giới hạn sở hữu các tổ chức nước ngoài chỉ có thể nắm giữ tại một ngân hàng nội địa là 30% và mức cổ phần cao nhất một ngân hàng nước ngoài có thể mua để trở thành một nhà đầu tư chiến lược là 20%, các ngân hàng nước ngoài chưa thực sự tạo được những chuyển biến mạnh mẽ do không nắm quyền kiểm soát. Do vậy, nguồn vốn ngoại tiếp cận với các ngân hàng trong nước cũng bị hạn chế khá nhiều. Dấu mốc Việt Nam gia nhập WTO vào năm 2007 đã tạo điều kiện cho các tổ chức tài chính nước ngoài tiếp cận thị trường tài chính Việt Nam mạnh mẽ hơn, khi các quy định đối với các tổ chức tài chính nước ngoài được nới lỏng, nhất là về việc mở chi nhánh và các điểm giao dịch, hạn chế về huy động tiền gửi bằng VND được dỡ bỏ cùng với khả năng mở rộng dịch vụ ngân hàng. Hoạt động của các tổ chức tín dụng nước ngoài trở nên sôi động hơn. Kể từ năm 2009, với cam kết mạnh mẽ của Chính phủ Việt Nam đối với WTO và sự công nhận vai trò quan trọng của một nền tài chính vững mạnh, ngân hàng con 100% vốn nước ngoài được phép thành lập tại Việt Nam. Đây là cột mốc quan trọng khi môi trường hoạt động của ngành có những bước chuyển mình đáng kể.
Các ngân hàng ngoại với năng lực tài chính và nghiệp vụ chuyên môn cao có thể mở rộng mạng lưới phân phối, cạnh tranh lành mạnh với các ngân hàng trong nước. Tính đến cuối năm 2017, có hơn 50 tổ chức tín dụng nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam, trong đó số lượng ngân hàng 100% vốn nước ngoài là 9 ngân hàng. Sự tham gia tích cực của các ngân hàng nước ngoài bên cạnh các ngân hàng nội địa đã phần nào thúc đẩy cạnh tranh, giúp khách hàng được hưởng lợi nhiều hơn và góp phần phát triển ngành ngân hàng. Dù là ngân hàng nội hay ngoại, thì để đạt được thành công, các ngân hàng đều phải thấu hiểu khách hàng, nâng cấp và đa dạng hóa danh mục sản phẩm và dịch vụ, đồng thời chủ động cải tiến quy trình để có thể phục vụ tốt nhất cho phân khúc khách hàng mà họ lựa chọn.
Dòng vốn nước ngoài có thể xem là một trong những giải pháp nâng cao năng lực tài chính, quản trị của ngân hàng trong nước, giúp nâng cao năng suất lao động và nhìn rộng hơn là nâng cao tính cạnh tranh của nền kinh tế.
Trong khi các ngân hàng nội có ưu thế về mạng lưới chi nhánh và mối quan hệ được xây dựng từ lâu với cộng đồng địa phương, thì các ngân hàng nước ngoài lại có thế mạnh về các sản phẩm phức tạp được kiểm chứng qua nhiều thị trường, cùng mạng lưới và những mối quan hệ quốc tế - điều mà khách hàng Việt Nam, cả doanh nghiệp lẫn cá nhân, đều rất cần trong thời kỳ kết nối kinh tế mạnh mẽ hơn bao giờ hết và thu nhập người dân ngày càng gia tăng. Dòng vốn ngoại vào ngân hàng Việt cũng giúp kích thích xử lý nợ xấu, nâng tỷ lệ an toàn vốn (CAR) và đẩy mạnh quá trình áp dụng Basel
II. Việc củng cố hệ thống ngân hàng cũng giúp Việt Nam nâng hạng tín nhiệm quốc gia, qua đó tăng sức hấp dẫn với dòng vốn ngoại vào nhiều lĩnh vực.
Việt Nam hiện đang trở thành một ngôi sao sáng ở châu Á do các nhân tố cơ bản hấp dẫn đối với đầu tư như tăng trưởng kinh tế ổn định, tình hình chính trị và xã hội ổn định, dân số trẻ và năng động, Chính phủ cởi mở, mang tư tưởng ủng hộ phát triển và mở cửa hội nhập kinh tế thông qua hàng loạt các hiệp định thương mại.
Việt Nam tham gia vào 12 hiệp định tự do thương mại song phương và đa phương với 56 nền kinh tế trên thế giới. Những hiệp định tự do thương mại này sẽ thúc đẩy Việt Nam trở thành điểm đến đầu tư khi chúng ta được kết nối với các quốc gia trên khắp thế giới.
Tiềm năng lớn của thị trường bán lẻ cũng là một nhân tố thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài. Trong năm 2016, 35% dân số sống ở khu vực thành thị và con số này được dự đoán tiếp tục tăng mạnh trong những năm tới, đạt 40% trước năm
2020. Dân số ở thành thị đã giúp tăng nhu cầu trải nghiệm mua sắm hiện đại làm thu hút nhiều tập đoàn bán lẻ quốc tế vào Việt Nam.
Theo Tổng cục Thống kê, thị trường bán lẻ Việt Nam ước tính đạt tổng giá trị 158 tỷ USD năm 2016; tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng với tỷ lệ bình quân là 15,5% một năm. Con số này trong giai đoạn 2007-2016 là 20%, tăng gần 7 lần kể từ khi Việt Nam gia nhập WTO. Đây được xem là nhân tố khích lệ mạnh mẽ đầu tư từ các tổ chức quốc tế vào Việt Nam.
Thị trường nội địa lớn với dân số đứng thứ 3 trong khu vực ASEAN và tầng lớp trung lưu kỳ vọng đạt 33 triệu người trước năm 2020 cũng là những nhân tố quan trọng giúp thu hút đầu tư nước ngoài.
Thời gian qua, Chính phủ Việt Nam đã tích cực cải thiện môi trường đầu tư, cắt giảm nhiều thuế suất trong khuôn khổ cộng đồng kinh tế châu Á cũng như các hiệp định tự do thương mại. Việc giảm cũng như dỡ bỏ nhiều loại thuế nhập khẩu đối với hàng hóa đã giúp các doanh nghiệp nước ngoài tăng đầu tư vào Việt Nam, từ đó đẩy mạnh xuất khẩu vào các thị trường thành viên trong khu vực tự do thương mại.
Đây cũng là đòn bẩy giúp thu hút các ngân hàng nước ngoài đầu tư vào Việt Nam khi nhu cầu sử dụng các dịch vụ tài chính ngân hàng của các doanh nghiệp tăng cao, đặc biệt là nhu cầu từ các doanh nghiệp nước ngoài.
Khi Việt Nam trở nên dễ tiếp cận hơn đối với các nhà đầu tư nước ngoài, nguồn vốn FDI đã tăng ổn định và mạnh mẽ trong nhiều năm qua. Vốn FDI vào Việt Nam đạt 7,71 tỷ USD trong quý I/2017, tăng 91,5% so với cùng kỳ 2016. Việt Nam cũng đóng vai trò trung tâm sản xuất với ngành sản xuất hoạt động mạnh hơn các nước láng giềng, làm tăng vốn đầu tư nước ngoài trong khu vực sản xuất.
Với tất cả những nhân tố này, Việt Nam đã và đang tiếp tục thu hút đầu tư nước ngoài mạnh mẽ trong nhiều lĩnh vực, bao gồm cả tài chính - ngân hàng. Chúng ta tiếp tục chứng kiến các ngân hàng nước ngoài gia nhập thị trường Việt Nam, số lượng các ngân hàng 100% vốn đầu tư nước ngoài tại đây cũng tăng lên. Đa phần các ngân hàng nước ngoài mở chi nhánh hoặc ngân hàng 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam nhằm phục vụ nhóm khách hàng doanh nghiệp từ quốc gia của họ và một số ngân hàng đặt mục tiêu phát triển thêm mảng bán lẻ.
Việc đánh giá tác động của FDI đến hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại ở Việt Nam là cần thiết, từ đó, có thể nhận định rò hơn về tính hiệu quả của việc huy động các nguồn vốn này, và đặc biệt là vai trò của nó đối với toàn bộ hệ thống ngân hàng.
GDP và lạm phát
Hahm (2008) cho rằng, tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh hay chậm, môi trường lạm phát ổn định hay bất ổn, tác động rất lớn đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Theo Chortareas (2012), trong các nhân tố vĩ mô gồm GDP, lạm phát, lãi suất, tỷ giá hối đoái, kết quả đã chỉ ra rằng, GDP có ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động của ngân hàng. Các ngân hàng có lợi thế thị trường lớn hơn thì ổn định hơn khi thực hiện đa dạng hóa thu nhập. Ảnh hưởng của các nhân tố vĩ mô đến sự gia tăng thu nhập của các ngân hàng trong giai đoạn nghiên cứu cũng thể hiện những mối quan hệ tích cực.
Tại các quốc gia có nền kinh tế và thị trường tài chính phát triển, các ngân hàng kinh doanh tại những quốc gia này thường có cơ hội cung cấp rộng rãi hơn các sản phẩm tài chính, nhờ đó, tạo ra nguồn thu nhập lớn hơn. Ngược lại, tại các quốc gia có những hạn chế nghiêm ngặt về hoạt động ngân hàng thì các ngân hàng hoạt động tại những quốc gia này chủ yếu thực hiện chức năng trung gian tài chính. Do đó, tỷ trọng thu nhập ngoài cũng thấp hơn.
Tại Việt Nam, nghiên cứu của Đặng Hữu Mẫn và Hoàng Dương Việt Anh (2014) sử dụng mô hình DPDA cho thấy, tỷ lệ lạm phát và tỷ lệ giá trị vốn hóa thị trường chứng khoán/tổng sản phẩm quốc nội có mối tương quan “dương” cùng chiều với lợi nhuận ngân hàng. Theo đó, nếu lạm phát tăng trong tỷ lệ “dự báo” và tốc độ vốn hóa thị trường chứng khoán tăng lên sẽ kích thích lợi nhuận ngân hàng.
Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, chất lượng môi trường thể chế có ảnh hưởng lớn đến hoạt động ngân hàng. Cụ thể, một bộ máy chính quyền hoạt động hiệu quả ở các cấp với chất lượng điều tiết các chính sách ngày càng cao và tồn tại trong một môi trường chính trị ổn định là tiền đề quan trọng góp phần kích thích hoạt động ngân hàng.
Đoàn Anh Tuấn (2018) nghiên cứu tác động của bất định chính trị đến hiệu quả của ngân hàng thương mại tại các nền kinh tế mới nổi, sử dụng các biến kiểm soát tầm vĩ mô như FINFREE, REG, GOV, REALGDP và INFLATION. Với FINFREE là chỉ
số tự do hoá tài chính, GOV và REG là tương ứng là các chỉ số phản ánh hiệu quả hoạt động của chính phủ và chất lượng thể chế quốc gia WGI - Worldwide Governance Indicators (2010). Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, GDP đầu người và chỉ số giá tiêu dùng có tác động tiêu cực đối với hiệu quả của ngân hàng.
Việc đánh giá GDP và lạm phát tác động như thế nào tới hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng là cần thiết, để ngân hàng có thể xem xét và đưa ra các chính sách