Lý Luận Về Hiệu Quả Hoạt Động Và Đánh Giá Tác Động Của Các Nhân Tố Vĩ Mô Tới Hiệu Quả Hoạt Động Của Ngân Hàng Thương Mại


trong số ít nỗ lực để giải thích lợi nhuận bền vững trong ngân hàng, các kết quả thực nghiệm cho thấy khu vực ngân hàng Hy Lạp có tính cạnh tranh không hoàn hảo. Các biến số như tỷ lệ tập trung và thị phần được phát hiện có ảnh hưởng tích cực nhưng không đáng kể đến các chỉ số thể hiện khả năng sinh lời. Ảnh hưởng của quy mô là phi tuyến tính, với lợi nhuận ban đầu tăng theo quy mô và sau đó giảm dần. Phát triển nghiên cứu của Eichengreen và Gibson (2001) tại các ngân hàng Hy Lạp, Ch. Spathis K. Kosmidou M. Doumpose (2002) sử dụng phương pháp đa tiêu chí để nghiên cứu về lợi nhuận và hiệu suất giữa các ngân hàng Hy Lạp quy mô nhỏ và lớn, cũng như các nhân tố lợi nhuận và hiệu suất liên quan đến quy mô của các ngân hàng. Sự cạnh tranh ngày càng tăng trên thị trường ngân hàng quốc gia và quốc tế, sự thay đổi liên minh tiền tệ và đổi mới công nghệ mới báo trước những thay đổi lớn trong môi trường ngân hàng và thách thức tất cả các ngân hàng, đòi hỏi sự chuẩn bị kịp thời để tham gia vào môi trường tài chính mới đầy cạnh tranh. Hiệu suất của các ngân hàng Hy Lạp càng cao thì khả năng cạnh tranh trên thị trường tài chính càng cao và ngược lại. Dựa trên tài sản của các ngân hàng, tác giả đã phân loại thành các ngân hàng có quy mô nhỏ và lớn. Việc tìm kiếm các nhân tố tạo ra sự khác biệt về hiệu suất có thể giải thích lợi thế hiệu suất của hai loại tổ chức tài chính này và giúp hiểu rò hơn về ngành công nghiệp 'trung gian tài chính' ở Hy Lạp. Trong khi phân loại các ngân hàng Hy Lạp dựa trên quy mô của chúng, và nghiên cứu trong một môi trường đa biến vào những năm 1990, kết quả của bài viết này có thể giúp xác định các nhân tố thành công (hoặc thất bại) chính của hai loại ngân hàng quy mô lớn và quy mô nhỏ tại Hy Lạp.

Andreas Dietrich Gabrielle (2014) sử dụng bộ dữ liệu lớn của ngân hàng và kỹ thuật ước tính GMM được mô tả bởi Arellano và Bover (1995). Bài viết phân tích cách mà các đặc điểm của ngân hàng, các biến số kinh tế vĩ mô và các nhân tố đặc thù của ngành ảnh hưởng đến khả năng sinh lời (hay tỷ suất lợi nhuận, mức sinh lợi) của 10.165 ngân hàng thương mại trên 118 quốc gia trong giai đoạn từ 1998 đến 2012. Khi phân nhóm các quốc gia theo ba mức thu nhập, nghiên cứu cho thấy các nhân tố quyết định khả năng sinh lợi của các ngân hàng trong mô hình có thể giải thích sự khác biệt về khả năng sinh lợi hiện có giữa các ngân hàng thương mại ở các nước thu nhập thấp, trung bình và cao. Các nhân tố quyết định khả năng sinh lời biến động khá lớn giữa các mức thu nhập khác nhau về tầm quan trọng, dấu hiệu và quy mô của hiệu ứng. Do đó, mức thu nhập có tác động quan trọng đến các nhân tố quyết định khả năng sinh lời của ngân hàng.

Mohammed Umar, Danjuma Maijama, Mohammad Adamu (2014) nghiên cứu ảnh hưởng của lạm phát đến hiệu suất ngân hàng. Để thực hiện mục tiêu này, bài báo đánh giá một số lý thuyết và công trình thực nghiệm về ảnh hưởng của lạm phát đến


hiệu suất của ngành tài chính. Bài báo tìm thấy hai quan điểm khác nhau. Theo đó, lạm phát có ảnh hưởng xấu đến hoạt động của ngành ngân hàng và hiệu ứng lan tỏa của nó có hại cho toàn bộ nền kinh tế. Lạm phát ảnh hưởng đến sức mua và chế độ tỷ giá hối đoái, chi phí cơ hội nắm giữ tiền tệ trong tương lai, làm xấu đi các khoản vay chính sách, phá vỡ kế hoạch kinh doanh và hiệu quả nắm giữ vốn chủ sở hữu của các ngân hàng. Trong khi chiều hướng ý kiến ngược lại lại tranh luận rằng, lạm phát dẫn đến tăng hiệu suất ngân hàng, miễn là các ngân hàng có thể dự đoán lạm phát trong tương lai, và điều chỉnh lãi suất tỷ lệ để tạo doanh thu cao hơn chi phí, dẫn đến lợi nhuận và hiệu suất cao hơn nhờ điều chỉnh tỷ lệ lãi suất.

Tác động của hệ số CAR đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng

Hệ số an toàn vốn (CAR) là một chỉ tiêu kinh tế phản ánh mối quan hệ giữa vốn tự có với tài sản có điều chỉnh rủi ro của ngân hàng thương mại. Hệ số này là thước đo quan trọng để đo mức độ an toàn hoạt động của ngân hàng, nó cho thấy khả năng duy trì đủ vốn của các ngân hàng. Hoạt động chính của ngân hàng là nhận tiền gửi và sử dụng vốn huy động được qua hình thức cho vay. Nếu một ngân hàng có đủ vốn và đáp ứng các tiêu chuẩn quy định, nó có thể hoạt động để tạo ra lợi nhuận. Phần lớn các nghiên cứu về khả năng sinh lời của ngân hàng, chẳng hạn như Short (1979), Bourke (1989), Molyneux và Thornton (1992), Demirguc-Kunt và Huizinga (2000) và Goddard (2004) đều sử dụng mô hình tuyến tính để ước tính tác động mức độ quan trọng của các yếu tố khác nhau trong việc giải thích lợi nhuận.

Ngoài ra, ngân hàng có thể cung cấp các khoản vay lớn khi có đủ tài sản thế chấp từ nguồn là những các khoản tiền của khách hàng mang đến gửi vào ngân hàng. Hệ số CAR càng cao thì hiệu quả hoạt động của ngân hàng càng tốt. Điều này được hỗ trợ bởi Saeed (2014), Myktybekovich (2013), Obamuyi (2013), Abera (2012). Raharjo và cộng sự (2014) đã chỉ ra rằng CAR có tác động tích cực đáng kể đến các ngân hàng tư nhân và không có tác động đáng kể đến các ngân hàng nhà nước ở Indonesia. Nhưng Frederick (2014), Gul, et al (2011), Dawood (2014) đã chỉ ra rằng CAR không có ảnh hưởng đáng kể đến hiệu quả hoạt động. Trong khi Curak và cộng sự (2011) đã chứng minh rằng CAR có ảnh hưởng tiêu cực đáng kể đến hiệu quả hoạt động. Vì vậy giả thuyết 1 là CAR có tác động tích cực đáng kể đến hoạt động của ngân hàng.

Tác động của hiệu quả hoạt động đến hoạt động của ngân hàng

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 144 trang tài liệu này.

Hiệu quả hoạt động cho biết ngân hàng có sử dụng tất cả các yếu tố sản xuất một cách tối ưu hay hiệu quả hay không. Như vậy, hiệu quả hoạt động của ngân hàng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của ngân hàng. Abera (2012) cho biết chi phí hoạt động thể


Tác động của một số nhân tố vĩ mô đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam - 4

hiện tổng chi phí hoặc chi phí vận hành ngân hàng, bao gồm cả tiền lương và phúc lợi của nhân viên, chi phí thuê phòng và các chi phí khác như đồ dùng văn phòng, tính theo phần trăm thu nhập. Tỷ lệ này cho thấy hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng về cơ bản, chủ yếu là các khoản cho vay, cho đến nay thu nhập của các ngân hàng vẫn bị chi phối bởi thu nhập từ lãi cho vay. Tỷ lệ hiệu quả các hoạt động khác nhỏ hơn cho thấy ngân hàng ít hiệu quả hơn trong việc thực hiện các hoạt động kinh doanh khác của nó.

Almazari (2014), Dawood (2014),Obamuyi (2013), Abera (2012), Sastrosuwito & Suzuki (2011), Curak, et al (2011), Pasiouras & Kosmidou (2007) nhận thấy rằng các ngân hàng có hiệu quả hoạt động tốt hơn có liên quan đến lợi nhuận cao hơn. Nhưng Saunders dan Schumacher (2000); Brock và Suarez (2000); Maudos và Guvera (2003); Lieberg và Schwaiger (2006) đã chứng minh rằng hiệu quả hoạt động có ảnh hưởng tích cực đáng kể đến lợi nhuận. Vì vậy giả thuyết 2 là hiệu quả hoạt động có tác động tiêu cực đáng kể đến hoạt động của ngân hàng.

Tác động của NIM đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng

Hệ số NIM ( biên lãi ròng - Net Interest Margin) là sự chênh lệch phần trăm giữa thu nhập lãi và chi phí lãi phải trả của ngân hàng, nó cho biết hiện các ngân hàng đang thực sự hưởng chênh lệch lãi suất giữa hoạt động huy động và hoạt động đầu tư tín dụng là bao nhiêu. Cũng giống như mọi loại hình doanh nghiệp bình thường, ngân hàng là một công ty kinh doanh trong lĩnh vực tài chính, cung cấp những dịch vụ liên quan cho các đối tượng khác nhau trong nền kinh tế. Như vậy lợi thế của ngân hàng sẽ được quyết định bởi thu nhập lãi thu được. Năng lực quản lý của ban điều hànhngân hàng trong việc kiểm soát số lượng chi phí lãi vay và quản lý các tài sản sản xuất để tạo ra lãi sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngân hàng. Saunders và Schumacher (2000); Brock và Suarez (2000) đã chứng minh rằng biên lãi ròng có ảnh hưởng tích cực đến lợi nhuận. Trong khi Raharjo và cộng sự (2014) chỉ ra rằng biên lãi ròng không có ảnh hưởng đáng kể đến các ngân hàng chính phủ nhưng lại có tác động tiêu cực đáng kể đến các ngân hàng tư nhân ở Ấn Độ. Vì vậy giả thuyết 3 là NIM có tác động tích cực đáng kể đến hiệu suất ngân hàng.

Tác động của NPL đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng

Nợ xấu (Nonperforming loan, NPL) là các khoản nợ dưới chuẩn, có thể quá hạn và bị nghi ngờ về khả năng thanh toán nợ lẫn khả năng thu hồi vốn của người cho vay. Tỷ lệ nợ xấu của một ngân hàng phản ánh khả năng rủi ro của ngân hàng trong việc hoàn trả khoản vay của con nợ có khó khăn. Sau khi các khoản tín dụng được cấp, các ngân hàng cần giám sát việc sử dụng các khoản tín dụng cũng như năng lực trả nợ của con


nợ và việc trích lập dự phòng nếu con nợ không thanh toán được, điều đó sẽ làm giảm lợi nhuận của ngân hàng. Frederick (2014) đã chứng minh rằng nợ xấu có ảnh hưởng tiêu cực đáng kể đến khả năng sinh lời. Điều này được hỗ trợ bởi Petria, et al (2015), Ongore và Kusa (2013); Abera (2012), Olweny & Shipho (2011), Sufian & Chong (2010), Kosmidou (2008), những người đã phát hiện ra rằng chất lượng tài sản có tác động tiêu cực đáng kể đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng được đo bằng ROA. Nhưng Duraj & Moci (2015) đã chứng minh rằng nợ xấu không ảnh hưởng đáng kể đến khả năng sinh lời. Trong khi Buchory (2015) đã chứng minh rằng nợ xấu có tác động tích cực đáng kể đến hiệu quả hoạt động. Vì vậy giả thuyết 4 là nợ xấu có tác động tiêu cực đáng kể đến hoạt động của ngân hàng.

Tác động của LDR đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng

Tỷ lệ cho vay trên tiền gửi (LDR) được sử dụng để đánh giá thanh khoản của ngân hàng bằng cách so sánh tổng số tiền vay của ngân hàng với tổng số tiền gửi của ngân hàng trong cùng kỳ. LDR được thể hiện dưới dạng tỷ lệ phần trăm. Nếu tỷ lệ quá cao, điều đó có nghĩa là ngân hàng có thể không có đủ thanh khoản để trang trải bất kỳ yêu cầu quỹ không lường trước nào. Ngược lại, nếu tỷ lệ quá thấp, ngân hàng có thể không kiếm được nhiều nhất có thể.

Tỷ lệ cho vay trên tiền gửi được sử dụng để đánh giá thanh khoản của ngân hàng bằng cách so sánh tổng số tiền vay của ngân hàng với tổng số tiền gửi của ngân hàng trong cùng kỳ. Các số liệu để tính được lấy trên bảng cân đối kế toán của ngân hàng. Các khoản vay được liệt kê dưới dạng tài sản trong khi tiền gửi được liệt kê dưới dạng nợ phải trả.

Tỷ lệ cho vay trên tiền gửi cho thấy khả năng của ngân hàng trong việc chi trả tổn thất và rút tiền của khách hàng. Các nhà đầu tư theo dòi LDR của các ngân hàng để đảm bảo có đủ thanh khoản để trang trải các khoản vay trong trường hợp suy thoái kinh tế dẫn đến vỡ nợ cho vay.

Ngoài ra, LDR giúp cho thấy một ngân hàng đang thu hút và giữ chân khách hàng tốt như thế nào. Nếu tiền gửi của ngân hàng ngày càng tăng, tiền mới và khách hàng mới đang được tích hợp. Do đó, ngân hàng có thể sẽ có nhiều tiền hơn để cho vay, điều này sẽ làm tăng thu nhập. LDR có thể giúp các nhà đầu tư xác định xem ngân hàng có được quản lý đúng cách hay không. Nếu ngân hàng không tăng tiền gửi hoặc tiền gửi của nó đang bị thu hẹp, ngân hàng sẽ có ít tiền hơn để cho vay. Trong một số trường hợp, các ngân hàng sẽ vay tiền để đáp ứng nhu cầu vay vốn của mình trong nỗ lực tăng thu nhập lãi. Tuy nhiên, nếu một ngân hàng đang sử dụng nợ để tài trợ cho các hoạt động cho vay


của mình thay vì tiền gửi, ngân hàng sẽ có chi phí dịch vụ nợ vì nó sẽ cần phải trả lãi cho khoản nợ. Do đó, một ngân hàng vay tiền để cho khách hàng vay thường sẽ có biên lợi nhuận thấp hơn và nợ nhiều hơn. Một ngân hàng thà sử dụng tiền gửi để cho vay vì lãi suất trả cho người gửi tiền thấp hơn nhiều so với lãi suất mà nó sẽ được tính cho việc vay tiền. LDR giúp các nhà đầu tư phát hiện ra các ngân hàng có đủ tiền gửi trong tay để cho vay và sẽ không cần phải dùng đến việc tăng nợ của họ.

LDR là một con số nhạy cảm của các ngân hàng. Nếu các ngân hàng cho vay quá nhiều tiền gửi của họ, họ có thể tự tăng giá quá cao, nhất là trong khi suy thoái kinh tế. Tuy nhiên, nếu các ngân hàng cho vay quá ít tiền gửi của họ, họ có thể có chi phí cơ hội vì tiền gửi của họ sẽ nằm trên bảng cân đối kế toán của họ không có doanh thu. Các ngân hàng có tỷ lệ LDR thấp có thể có thu nhập lãi suất thấp hơn dẫn đến thu nhập thấp hơn.

Nhiều yếu tố có thể thúc đẩy những thay đổi trong tỷ lệ cho vay trên tiền gửi. Điều kiện kinh tế có thể ảnh hưởng đến nhu cầu vay cũng như số tiền các nhà đầu tư gửi. Nếu người tiêu dùng thất nghiệp, họ không có khả năng tăng tiền gửi của họ. Ngân hàng trung ương điều chỉnh chính sách tiền tệ bằng cách tăng và giảm lãi suất. Nếu lãi suất thấp, nhu cầu vay có thể tăng tùy thuộc vào điều kiện kinh tế. Nói tóm lại, có nhiều yếu tố bên ngoài ảnh hưởng đến LDR của ngân hàng.

Thông thường, tỷ lệ cho vay trên tiền gửi lý tưởng là 80% đến 90%. Tỷ lệ cho vay trên tiền gửi là 100% có nghĩa là một ngân hàng đã cho khách hàng vay một đồng cho mỗi đồng nhận được trong các khoản tiền gửi mà nó nhận được. Điều đó cũng có nghĩa là một ngân hàng sẽ không có dự trữ đáng kể cho các khoản dự phòng.

Với việc cho vay từ tiền nhận gửi, thu nhập ngân hàng (ROA) sẽ tăng lên. Rengasamy (2014), Saeed (2014), Curak, và cộng sự (2011), Gul, và cộng sự (2011), Brock và Suarez (2006) đã chứng minh rằng tỷ lệ cho vay trên tiền gửi có tác động tích cực đáng kể đến khả năng sinh lời. Nhưng Petria và cộng sự (2015) đã chứng minh rằng tỷ lệ cho vay trên tiền gửi có ảnh hưởng tiêu cực đáng kể đến hoạt động của ngân hàng.

1.2. Khoảng trống nghiên cứu

Với những nghiên cứu đã được trình bày trong phần tổng quan các nghiên cứu liên quan đến đề tài của luận án ở trên, tác giả nhận thấy có một số “khoảng trống” trong vấn đề nghiên cứu hiệu quả hoạt động của ngân hàng, cụ thể như sau:

Thứ nhất, hầu hết các nghiên cứu đã công bố mới chỉ nghiên cứu hiệu quả của từng nội dung hoạt động của ngân hàng thương mại, chủ yếu là hoạt động kinh doanh.


Thứ hai, khi đánh giá hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu vẫn chủ yếu tiếp cận theo phương pháp đánh giá truyền thống. Đó là đánh giá hoạt động của các ngân hàng qua các chỉ tiêu tài chính. Các chỉ tiêu đó được chia thành 3 nhóm: một là, nhóm chỉ tiêu phản ánh chi phí, hai là, nhóm chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động và ba là, nhóm chỉ tiêu phản ánh hiệu quả. Tuy nhiên, các chỉ tiêu này được dùng hầu hết là các chỉ tiêu tuyệt đối. Về cơ bản nó phản ánh quy mô sử dụng các đầu vào để tạo ra các đầu ra trong hoạt động của các ngân hàng và chủ yếu là các chỉ tiêu mang tính chất thời điểm.

Thứ ba, các chỉ tiêu sử dụng trong các nghiên cứu đã có, hầu hết chỉ là các chỉ tiêu đơn; mặc dù có các chỉ tiêu phản ánh toàn diện hoạt động của ngân hàng nhưng cũng chỉ cho phép so sánh hai biến số với nhau. Do các chỉ tiêu phản ánh còn đơn điệu và chung chung, nên khó giúp cho các nhà quản lý có thể đưa ra được các quyết định đúng thời điểm. Các chỉ tiêu này chủ yếu nghiêng về mục tiêu báo cáo tài chính hơn là đi sâu phân tích kết quả hoạt động của ngân hàng.

Thứ tư, tồn tại sự phân biệt chưa rành rọt giữa các chỉ tiêu về hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại với các chỉ tiêu phản ánh mang tính nguyên nhân hiệu quả của ngân hàng thương mại ấy, ví dụ như chỉ tiêu nợ xấu, thị phần, an toàn vốn và thanh khoản…

Thứ năm, phân tích chỉ số trong các công trình dựa vào số liệu ngân hàng thương mại Việt Nam đến một thời điểm cụ thể, phân tích nhân tố bị giới hạn số lượng mẫu và thời gian nghiên cứu, giới hạn số lượng các biến đầu vào, đầu ra sử dụng trong mô hình phân tích DEA, biến nội sinh, ngoại sinh nên ý nghĩa thống kê và độ tin cậy của một số nhân tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại còn có những hạn chế.


CHƯƠNG 2. LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG VÀ ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA CÁC NHÂN TỐ VĨ MÔ TỚI HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI


2.1. Tổng quan ngân hàng thương mại

2.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại

Trong lịch sử, quá trình hình thành và hoàn thiện hệ thống ngân hàng đã tạo ra các ngân hàng thương mại, được biết đến với chức năng kinh doanh tiền tệ. Hơn bất cứ tổ chức tài chính nào khác, NHTM luôn được coi là bách hoá tài chính, cung ứng rất nhiều các sản phẩm, dịch vụ về tài chính. Để xây dựng khái niệm NHTM, có thể dựa vào tính chất và mục đích hoạt động của nó trên thị trường tài chính, hoặc kết hợp tính chất, mục đích và đối tượng hoạt động.

Những ngân hàng đầu tiên được ghi nhận thành lập ở Anh – khoảng cuối thế kỉ 17, cùng với sự ra đời của cuốn sách kinh điển “Của cải của các dân tộc” – Adam Smith (1776). Được ủng hộ bởi quan điểm của ông về một nền kinh tế tự điều chỉnh, những người cho vay tiền và chủ ngân hàng đã quản lý để hạn chế sự tham gia của nhà nước vào lĩnh vực ngân hàng và nền kinh tế nói chung. Chủ nghĩa tư bản thị trường tự do và ngân hàng cạnh tranh này đã tìm thấy mảnh đất màu mỡ ở Thế giới mới, nơi Hợp chủng quốc Hoa Kỳ xuất hiện. Ban đầu, những ý tưởng của Smith không mang lại lợi ích cho ngành ngân hàng. Tuy nhiên, sự phát triển của ngành ngân hàng sau đó được bổ sung bởi các ngân hàng thương mại. Hầu hết các nhiệm vụ kinh tế mà lẽ ra do hệ thống ngân hàng quốc gia đảm nhiệm, ngoài hoạt động kinh doanh ngân hàng thông thường như cho vay và tài chính doanh nghiệp, đều rơi vào tay các ngân hàng thương mại lớn vì hệ thống ngân hàng quốc gia còn rời rạc. Trong thời kỳ bất ổn kéo dài cho đến những năm 1920, các ngân hàng thương mại này đã ghép các mối quan hệ quốc tế của họ thành sức mạnh chính trị và tài chính. Các ngân hàng lớn mạnh và có ảnh hưởng đến tận ngày nay, bao gồm Goldman Sachs, Kuhn, Loeb & Co., và J.P. Morgan & Co. Ban đầu, họ chủ yếu dựa vào hoa hồng từ việc bán trái phiếu nước ngoài từ châu Âu, với một lượng nhỏ trái phiếu Mỹ giao dịch ở châu Âu. Điều này cho phép họ xây dựng vốn. Vào thời điểm đầu của kỷ nguyên nền kinh tế trao đổi, một ngân hàng không có nghĩa vụ pháp lý phải tiết lộ dự trữ vốn của mình, một dấu hiệu cho thấy khả năng tồn tại của khoản vay lớn, trên mức trung bình. Thông lệ bí ẩn này có nghĩa là danh tiếng và lịch sử của một ngân hàng quan trọng hơn bất cứ điều gì. Trong khi các ngân hàng mới nổi đến và đi, các ngân hàng thương mại này có lịch sử giao dịch thành công lâu dài. Khi các ngành công


nghiệp lớn xuất hiện và tạo ra nhu cầu về tài chính doanh nghiệp, số lượng vốn cần thiết không thể được cung cấp bởi bất kỳ ngân hàng đơn lẻ nào, và vì vậy các đợt phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng (IPO) và phát hành trái phiếu ra công chúng trở thành cách duy nhất để tăng số vốn cần thiết. Tuy nhiên, dân chúng ở Hoa Kỳ và các nhà đầu tư nước ngoài ở Châu Âu biết rất ít về việc đầu tư vì việc tiết lộ thông tin không được thực thi hợp pháp. Do đó, các đợt chào bán thành công đã làm tăng danh tiếng của ngân hàng và đặt ngân hàng vào tình thế phải yêu cầu nhiều hơn nữa để thực hiện một hợp đồng giao dịch. Vào cuối những năm 1800, nhiều ngân hàng yêu cầu một vị trí trong hội đồng quản trị của các công ty tìm kiếm vốn, và nếu ban quản lý tỏ ra thiếu chặt chẽ, họ sẽ tự điều hành công ty. Mặc dù những năm đầu 1900 đã chứng kiến các ngân hàng thương mại được thành lập khá nhiều, nhưng rất khó để người dân bình thường có được khoản vay. Các ngân hàng này không quảng cáo, và họ hiếm khi mở rộng tín dụng cho những người "bình dân". Dần dần, đến những năm sau đó, ngân hàng thương mại càng ngày càng được mở rộng, và các lý luận về ngân hàng ngày càng được hoàn thiện hơn. Cho đến nay, khái niệm về ngân hàng khá đa dạng.

Theo luật Ngân hàng của Pháp năm 1941 và luật Ngân hàng sửa đổi năm 1984 thì “Tổ chức tín dụng là pháp nhân thực hiện thường xuyên các nghiệp vụ ngân hàng. Hoạt động ngân hàng bao gồm việc nhận tiền gửi từ công chúng, các hoạt động tín dụng cũng như việc cung cấp và quản lý các phương tiện thanh toán cho khách hàng”

Luật Ngân hàng của Ấn Độ ban hành năm 1950, được bổ sung năm 1959 đã quy

định: “Ngân hàng là cơ sở nhận các khoản tiền ký thác để cho vay hay tài trợ, đầu tư”.

Đạo luật Thương mại mở rộng của Mỹ ban hành năm 1962 định nghĩa “Bất kỳ một tổ chức nào cung cấp tài khoản tiền gửi và cho vay đối với tổ chức kinh doanh hay cho vay thương mại sẽ được xem là một ngân hàng”.

Luật Ngân hàng thương mại sửa đổi của Thái Lan năm 1998 có đưa ra khái niệm: “Ngân hàng thương mại thực hiện việc nhận tiền gửi để rút theo yêu cầu hoặc vào cuối một thời hạn cụ thể và sử dụng số tiền đó theo một số các cách như: (a) cấp tín dụng, (b) mua và bán hối phiếu hoặc bất kỳ công cụ chuyển nhượng nào; (c) mua và bán ngoại hối”

Tại Việt Nam, theo quy định tại điều 4, Luật các Tổ chức tín dụng Số 47/2010/QH12 được Quốc hội khoá XII thông qua ngày 16/6/2010 và Luật 17/2017/QH14 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng:

Xem tất cả 144 trang.

Ngày đăng: 12/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí