Các Hoạt Động Cơ Bản Của Ngân Hàng Thương Mại 25704


“Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng có thể được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật này. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng bao gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác xã”.

“Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng theo và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận”

“Hoạt động ngân hàng là việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc một số các nghiệp vụ sau đây: a) Nhận tiền gửi; b) Cấp tín dụng; c) Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản”.

Như vậy, với tư cách là trung gian tài chính, kinh doanh tiền tệ và cung ứng nhiều dịch vụ tài chính, khái niệm ngân hàng thương mại có thể được xây dựng từ nhiều bình diện khác nhau. Cùng với sự phát triển của hệ thống ngân hàng trên khắp thế giới, quy định pháp luật của từng quốc gia lại có thể mở rộng tối đa hoặc hạn chế hoạt động của ngân hàng thương mại trong một số lĩnh vực nhất định.

Trong khuôn khổ nghiên cứu của luận án này, khái niệm về ngân hàng thương mại được xây dựng theo cách tiếp cận truyền thống qua chức năng và các hoạt động cơ bản của nó:

“Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi, cấp tín dụng và cung ứng dịch vụ thanh toán trong nền kinh tế”.

Hoạt động kinh doanh tiền tệ của ngân hàng thương mại vì mục tiêu lợi nhuận được biểu hiện qua chênh lệch tỷ giá hối đoái; chênh lệch lãi suất; chuyển đổi kỳ hạn nguồn vốn - tài sản; chuyển đổi rủi ro nguồn vốn - tài sản; cung cấp dịch vụ thanh toán và đầu tư tư bản.

2.1.2. Các loại hình Ngân hàng thương mại

Có nhiều tiêu chí để phân loại các ngân hàng thương mại tại Việt Nam, nếu dựa vào tiêu chí hình thức sở hữu thì các ngân hàng thương mại được chia thành 5 loại như sau:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 144 trang tài liệu này.

* Ngân hàng thương mại Nhà nước

Ngân hàng thương mại Nhà nước là ngân hàng do Nhà nước thành lập và cấp vốn, thuộc sở hữu của Nhà nước từ 51% trở lên và có tư cách pháp nhân theo pháp luật

Tác động của một số nhân tố vĩ mô đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam - 5


Việt Nam. Ngân hàng thương mại Nhà nước hoạt động theo mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên hoặc công ty cổ phần.

* Ngân hàng thương mại cổ phần đa sở hữu

Ngân hàng thương mại cổ phần đa sở hữu là những ngân hàng được thành lập thông qua việc phát hành cổ phiếu cho đông đảo các loại hình nhà đầu tư. Việc nắm giữ các cổ phiếu cho phép người sở hữu, được gọi là cổ đông, có quyền tham gia quyết định các hoạt động của ngân hàng, có thể được nhận cổ tức từ thu nhập sau thuế của ngân hàng, đồng thời cùng gánh chịu tổn thất xảy ra nếu có.

* Ngân hàng liên doanh

Ngân hàng liên doanh được hình thành trên cơ sở góp vốn của hai hay nhiều bên, có thể là giữa một hoặc nhiều ngân hàng trong nước với một hoặc nhiều ngân hàng nước ngoài trên cơ sở hợp đồng hợp tác liên doanh để tận dụng lợi thế của các bên. Ngân hàng liên doanh là pháp nhân Việt Nam, có trụ sở chính tại Việt Nam và hoạt động dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn từ hai thành viên trở lên.

* Chi nhánh ngân hàng thương mại nước ngoài

Các ngân hàng thương mại nước ngoài được phép mở chi nhánh tại Việt Nam cần hoạt động tuân thủ theo luật pháp Việt Nam. Chi nhánh ngân hàng thương mại nước ngoài không có tư cách pháp nhân, được trụ sở ngân hàng nước ngoài bảo đảm chịu trách nhiệm về mọi nghĩa vụ, cam kết của chi nhánh tại Việt Nam.

* Ngân hàng thương mại 100% vốn nước ngoài

Ngân hàng thương mại 100% vốn nước ngoài là NHTM được thành lập và có trụ sở chính tại Việt Nam, với 100% vốn điều lệ thuộc sở hữu nước ngoài (trong đó phải có một ngân hàng nước ngoài sở hữu trên 50% vốn điều lệ - ngân hàng mẹ). Ngân hàng thương mại 100% vốn nước ngoài hoạt động dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên hoặc từ 2 thành viên trở lên, là pháp nhân Việt Nam.

2.1.3. Đặc trưng của ngân hàng thương mại

* Về cấu trúc tài chính và tài sản:

Ngân hàng thương mại là loại hình doanh nghiệp có quy mô lớn trên cả giác độ vốn chủ sở hữu, tổng tài sản lẫn cơ cấu tổ chức, hệ số nợ rất cao và cấu trúc tài chính đặc biệt. Ngân hàng là tổ chức tài chính được cấp phép nhận tiền gửi và cho vay. Các ngân hàng cũng có thể cung cấp các dịch vụ tài chính đa dạng như thanh toán, quản lý tài sản, kinh doanh ngoại hối và két an toàn... Ở hầu hết các quốc gia, hoạt động của các


ngân hàng thương mại được quy định bởi chính phủ quốc gia hoặc ngân hàng trung ương. Ở Việt Nam, vốn chủ sở hữu của các ngân hàng thương mại là hàng nghìn tỷ đồng. Đối với các ngân hàng thương mại trên thế giới, vốn chủ sở hữu lên tới nhiều tỷ đô la Mỹ. Mạng lưới các chi nhánh ngân hàng thường rất lớn và phân tán rộng về địa lý. Trong khi quy mô về vốn chủ sở hữu đã rất lớn, nguồn vốn của ngân hàng thương mại lại chủ yếu là nợ được huy động từ bên ngoài ngân hàng. Cấu trúc tài sản của ngân hàng thương mại đặc biệt hơn so với các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh khác là ở tỷ trọng tài sản tài chính. Phần lớn tài sản của ngân hàng thương mại là tài sản tài chính, mang đặc trưng trừu tượng, hình thái vật chất giản đơn chỉ là giấy tờ hoặc thậm chí chỉ là dữ liệu điện tử được lưu giữ trong một thiết bị nhất định. Bên cạnh đó, ngân hàng thương mại thường có xu hướng liên tục phát triển các sản phẩm, công cụ tài chính mới.

Ngân hàng là một phần rất quan trọng của nền kinh tế khi thực hiện cung cấp các dịch vụ quan trọng cho cả người tiêu dùng và doanh nghiệp. Là nhà cung cấp dịch vụ tài chính, ngân hàng là nơi an toàn để lưu trữ tiền mặt của các khách hàng. Thông qua các dịch vụ khác nhau, khách hàng từ cá nhân đến tổ chức có thể thực hiện các giao dịch ngân hàng từ thông thường như gửi rút tiền, tiết kiệm, thanh toán séc, hóa đơn … hoặc dịch vụ phức tạp như tín dụng, quản lý tiền mặt, tài trợ thương mại...

Các ngân hàng cung cấp cơ hội tín dụng cho các cá nhân và doanh nghiệp khi sử dụng số tiền được gửi tại ngân hàng - tiền mặt ngắn hạn - cho người khác vay để trả nợ dài hạn như cho vay mua ô tô, thẻ tín dụng, thế chấp và các phương tiện nợ khác. Quá trình này giúp tạo ra thanh khoản trên thị trường - tạo ra tiền và giữ cho nguồn cung tiếp tục.

Cũng giống như bất kỳ doanh nghiệp nào khác, mục tiêu của một ngân hàng là kiếm lợi nhuận cho chủ sở hữu của nó và các ngân hàng kiếm lợi nhuận bằng cách tính lãi của người đi vay nhiều hơn so với trả lãi ít hơn cho người mang tiền đến gửi. Tiền gửi của khách hàng cung cấp cho các ngân hàng vốn để thực hiện các khoản vay này. Ngoài ra, các ngân hàng kiếm tiền từ phí dịch vụ và phí. Các khoản phí này khác nhau tùy thuộc vào các sản phẩm, từ phí tài khoản (phí bảo trì hàng tháng, phí số dư tối thiểu, phí thấu chi, phí tiền không đủ trong tài khoản, phí két an toàn và phí chậm trả…). Nhiều sản phẩm cho vay còn có phí ngoài lãi suất.

Các ngân hàng kiểu truyền thống được đặt tại các địa điểm cụ thể, nhưng xu hướng hiện nay ngày càng có nhiều ngân hàng phát triển các giao dịch trực tuyến. Với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ, khách hàng được thực hiện hầu hết các dịch vụ trực tuyến tương tự như họ có thể thực hiện trực tiếp bao gồm chuyển khoản, gửi tiền tiết kiệm và thanh toán hóa đơn. Khi giao dịch trực tuyến, các ngân hàng có thể cung


cấp nhiều loại sản phẩm và dịch vụ hơn với chi phí thấp hơn, thậm chí còn miễn phí giao dịch cho khách hàng của họ.

Các ngân hàng thương mại rất quan trọng đối với nền kinh tế vì đó là nơi tạo ra vốn, tín dụng và thanh khoản trên thị trường.

* Hoạt động của ngân hàng thương mại luôn chứa đựng nhiều rủi ro và chịu sự kiểm soát, giám sát chặt chẽ của hệ thống luật pháp.

Trên giác độ tài chính doanh nghiệp, khi một doanh nghiệp có hệ số nợ cao sẽ dẫn đến rủi ro trong hoạt động cũng cao. Bên cạnh đó, nguồn vốn nợ chủ yếu của ngân hàng thương mại lại là tiền gửi với đặc trưng có thể bị rút ra trước hạn với khối lượng khó xác định. Sản phẩm, dịch vụ ngân hàng không được hưởng quy chế bảo hộ độc quyền và mang tính phức tạp, trực tiếp. Hơn nữa, ngân hàng thương mại tham gia vào nhiều cam kết trong khi chưa chuyển giao vốn thực sự, tức là hoạt động ngoại bảng phong phú và đa dạng. Điểm này là một đặc trưng khác biệt với các loại hình doanh nghiệp khác. Vì những lý do này, hoạt động của ngân hàng thương mại chứa đựng nhiều rủi ro hơn các ngành kinh doanh khác. Các ngân hàng thương mại là một phần quan trọng của nền kinh tế, không chỉ thực hiện cung cấp cho người tiêu dùng một dịch vụ thiết yếu, mà còn giúp tạo ra vốn và thanh khoản trên thị trường. Ngân hàng thường lấy tiền mà khách hàng của họ gửi tiết kiệm và cho người khác vay. Các ngân hàng thương mại đóng một vai trò trong việc tạo ra tín dụng, dẫn đến sự gia tăng sản xuất, việc làm và chi tiêu tiêu dùng, do đó thúc đẩy nền kinh tế. Do vậy, hoạt động của các ngân hàng thương mại cần được quản lý chặt chẽ bởi các ngân hàng trung ương.

Rủi ro trong hoạt động của ngân hàng thương mại đa dạng, ở mức độ cao, tích luỹ nhanh và dễ lây lan. Rủi ro trong hoạt động của ngân hàng thương mại bao gồm các loại rủi ro đặc thù như rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất, rủi ro ngoại hối, rủi ro vốn khả dụng, rủi ro đạo đức,…

* Tính liên kết và ổn định của hệ thống ngân hàng

Hệ thống ngân hàng có tính phụ thuộc lẫn nhau rất lớn. Hơn bất cứ ngành kinh doanh nào trong nền kinh tế, rủi ro trong hoạt động ngân hàng có tính lan tỏa rất nhanh. Hoạt động như một hệ thống các mắt xích liên kết chặt chẽ, chỉ cần khi một ngân hàng thương mại, dù yếu và nhỏ nhất, gặp khó khăn trong hoạt động, đặc biệt là khó khăn về thanh khoản, là có thể dẫn đến nguy cơ phá sập hệ thống. Thực tiễn đã cho thấy, thanh khoản được ví như hơi thở của sự sống trong hoạt động ngân hàng thương mại. Mọi rủi ro, tổn thất trong hoạt động của ngân hàng thương mại đều có thể dẫn đến hậu quả cuối cùng là ngân hàng mất khả năng thanh toán rồi phá sản.


Hệ thống ngân hàng – tài chính trong nền kinh tế rất nhạy cảm với mọi biến động về kinh tế, kỹ thuật, chính trị và xã hội. Những biến động này thường có tác động gần như tức thời đến hoạt động của thị trường tài chính, điển hình là thị trường chứng khoán, theo đó, nó gây ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của hệ thống ngân hàng. Đối với công tác quản lý vĩ mô nền kinh tế, việc nắm bắt được cơ chế hoạt động, ảnh hưởng lẫn nhau của các phần tử trong hệ thống tài chính là một trong những vấn đề cốt yếu, quyết định thành bại.


2.1.4. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại

2.1.4.1. Hoạt động tạo lập vốn

Nguồn vốn của ngân hàng thương mại gồm nguồn vốn chủ sở hữu và nguồn

đi vay được hình thành liên tục trong quá trình hoạt động:

Nguồn vốn chủ sở hữu

Để bắt đầu hoạt động của mình, ngân hàng cần có một lượng vốn ít nhất phải bằng vốn pháp định. Nguồn vốn hình thành ban đầu (tuỳ theo tính chất của mỗi ngân hàng mà nguồn vốn hình thành vốn ban đầu khác nhau: do ngân sách nhà nước cấp, do các bên liên doanh đóng góp, hoặc vốn góp thuộc sở hữu tư nhân) và nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động (nguồn từ lợi nhuận để lại, phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm) là phần vốn căn bản cho hoạt động của ngân hàng.

Nguồn đi vay

Ngân hàng có các nguồn huy động được từ tiền gửi: tiền gửi thanh toán (là tiền của các doanh nghiệp hoặc cá nhân gửi vào ngân hàng để nhờ ngân hàng giữ hộ, thanh toán); tiền gửi có kì hạn của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội (nhiều khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội sẽ được chi trả sau một thời gian xác định); tiền gửi tiết kiệm của dân cư (các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu nhập tạm thời chưa sử dụng). Trong điều kiện có khả năng tiếp cận với ngân hàng, họ đều có thể để trong tài khoản nhằm thực hiện các mục tiêu bảo toàn và sinh lời với các khoản tiền; tiền gửi của các ngân hàng thương mại khác.

Nguồn tiền gửi là nguồn vốn quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, khi cần ngân hàng thương mại thường vay mượn thêm. Cụ thể, vay ngân hàng trung ương, đây thường là các khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả. Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ (dự trữ bắt buộc, dự trữ thanh toán), ngân hàng thương mại cũng có hai lựa chọn, hoặc là vay các tổ chức tín dụng khác hoặc chọn vay


ngân hàng nhà nước. Đối với các ngân hàng, việc ngân hàng thương mại vay mượn lẫn nhau trên thị trường liên ngân hàng là khá phổ biến. Ngoài ra, còn có hình thức vay trên thị trường vốn như phát hành các giấy nợ và từ các nguồn khác: nguồn uỷ thác, nguồn trong thanh toán…

Như vậy, hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại diễn ra như sau:

Ngân hàng kinh doanh tiền tệ dưới hình thức huy động, đi vay dưới mọi hình thức pháp luật và thị trường cho phép. Hoạt động đi vay - hoạt động tạo nguồn vốn cho ngân hàng thương mại - đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động của ngân hàng thương mại. Huy động vốn là hoạt động thường xuyên của ngân hàng thương mại. Một ngân hàng thương mại bất kì nào cũng bắt đầu hoạt động của mình bằng việc huy động nguồn vốn. Nguồn vốn huy động của ngân hàng thương mại là nguồn tiền nhàn rỗi trong các tổ chức kinh tế, dân cư... Nguồn vốn thường chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng nguồn vốn của ngân hàng thương mại là tiền gửi từ khách hàng.

Khi những người có tiền chưa sử dụng đến họ có thể đem ra đầu tư hoặc gửi ngân hàng để nhận tiền lãi. Nếu lãi suất gửi tiền tại ngân hàng thấp, người có tiền sẽ tìm kiếm cơ hội đầu tư trong khi cân nhắc lợi nhuận và rủi ro từ hoạt động đầu tư đó, Còn khi lãi suất ngân hàng cao, những người có tiền sẽ gửi tiết kiệm tại ngân hàng thay vì đi đầu tư bởi lợi nhuận chắc chắn và hầu như không có rủi ro. Không những thế, người gửi tiền vào ngân hàng cũng mong muốn được sử dụng hàng loạt dịch vụ đi kèm mà ngân hàng dành cho khách hàng của mình như chuyển tiền, ủy nhiệm thu, ủy nhiệm chi, phát hành thẻ tín dụng, bảo quản các tài sản có giá trị lớn... Khi gửi tiền vào ngân hàng, người gửi tiền có thể vay ngân hàng một khoản tiền mà không cần thế chấp vì họ đã có một số tiền gửi nhất định ở ngân hàng, coi như một khoản đảm bảo.

Trong một số trường hợp, ngân hàng có thể kiếm thêm thu nhập từ lệ phí nhận tiền gửi, tuy nhiên lý do chính ngân hàng nhận tiền gửi là để tạo nguồn cho vay, từ đó ngân hàng có thể đầu tư, sử dụng nhằm kiếm được những khoản thu nhập lớn hơn so với lãi suất huy động.

Hoạt động nhận tiền gửi của ngân hàng có ý nghĩa to lớn với người gửi tiền, nền kinh tế, cũng như bản thân ngân hàng. Thông qua hoạt động này mà ngân hàng có thể tập hợp được các khoản tiền nhàn rỗi, nhỏ bé, phân tán tạm thời chưa sử dụng với các thời hạn hết sức khác nhau thành nguồn tiền lớn tài trợ cho nền kinh tế, hoặc cho các cá nhân có nhu cầu sử dụng. Điều khó khăn nhất mà ngân hàng phải thực hiện là sử dụng các khoản tiền gửi có thời hạn rất khác nhau để cho vay những món có thời hạn xác định, vì thế mà ngân hàng phải quản lí tốt thời hạn của các nguồn vốn của mình thì mới


duy trì được hoạt động có hiệu quả, tránh được những rủi ro về khả năng thanh toán. Có thể nói, ngân hàng là đối tượng duy nhất có thể sử dụng vốn ngắn hạn để cho vay những khoản dài hạn. Việc tập hợp được những nguồn tiền nhàn rỗi trong dân chúng để đưa vào kinh doanh đã góp phần tiết kiệm và sử dụng có hiệu quả nguồn lực của nền kinh tế. Ngoài ra, hoạt động nhận tiền gửi của ngân hàng cũng góp phần tiết kiệm chi phí lưu thông tiền tệ. Đặc biệt, ở những nước phát triển nếu dân chúng có thói quen gửi tiền vào ngân hàng để sử dụng các dịch vụ không dùng tiền mặt thì điều này sẽ góp phần giúp chính phủ quản lý được thu nhập của người dân.

Một trong những nguồn vốn không kém phần quan trọng của ngân hàng là nguồn vốn từ phát hành các công cụ nợ như kỳ phiếu, trái phiếu. Việc phát hành kỳ phiếu hay trái phiếu phụ thuộc vào uy tín, quy mô vốn cần huy động, thời gian huy động vốn, cơ cấu nợ và tài sản của ngân hàng.

Các hoạt động huy động nguồn vốn trên đây hình thành nên tài sản nợ của ngân hàng và ngân hàng phải có trách nhiệm chi trả đối với tất cả các nguồn vốn huy động được theo thỏa thuận với khách hàng. Quy mô và cơ cấu nguồn vốn quyết định đến hoạt động của ngân hàng. Do đó, quản lý nguồn vốn phù hợp và sử dụng vốn có hiệu quả là một vấn đề mang tính chiến lược đối với mỗi ngân hàng.

2.1.4.2. Hoạt động sử dụng vốn

Khi đã huy động được vốn, nắm trong tay một số tiền nhất định thì các ngân hàng thương mại phải làm như thế nào để hiệu quả hoá những nguồn này, nghĩa là tìm cách để những khoản tiền đó được đầu tư đúng nơi, đúng chỗ, có hiệu quả, an toàn, đem lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng. Và hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng được thực hiện bằng những cách sau: ngân hàng đã tài trợ cho nền kinh tế dưới dạng cho các thành phần kinh tế vay lại, hoặc ngân hàng sử dụng vốn huy động được vào các hoạt động đầu tư trực tiếp của mình như tham gia góp vốn cùng kinh doanh hay thông qua các hợp đồng mua và cho thuê tài sản, gửi tiền tại các ngân hàng khác (tại ngân hàng trung ương hay những tổ chức tín dụng khác), kinh doanh ngoại tệ, đầu tư trên thị trường chứng khoán, thực hiện các hoạt động bảo lãnh phát hành... Những đối tượng cần tài trợ không chỉ có các tổ chức kinh tế thực hiện hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, thương mại mà còn có cả các cá nhân, hộ gia đình, thậm chí Chính phủ cũng được ngân hàng tài trợ dưới những hình thức như ngân hàng thương mại mua tín phiếu kho bạc, trái phiếu của chính phủ trên thị trường tiền tệ. Sự phát triển của hoạt động cho vay đã giúp ngân hàng có vị thế ngày càng quan trọng trong quá trình phát triển của nền kinh tế. Hơn nữa thông qua hoạt động cho vay, ngân hàng thương mại có khả năng “tạo tiền” hay mở rộng lượng


tiền cung ứng. Tuy nhiên hoạt động cho vay của ngân hàng chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro nên ngân hàng thường áp dụng các nguyên tắc hoạt động và quản lý tiền vay một cách chặt chẽ.

Với phần lãi thu được từ hoạt động cho vay, ngân hàng sẽ dùng nó để trả lãi suất cho nguồn vốn đã huy động và đi vay, thanh toán những chi phí trong hoạt động, phần còn lại sẽ là lợi nhuận của ngân hàng. Cho vay là hoạt động kinh doanh chủ chốt của ngân hàng thương mại để tạo ra lợi nhuận, lãi suất thu được từ cho vay cần chi trả đảm bảo cho cả khoản vốn dự trữ, chi phí kinh doanh và quản lý, chi phí vốn trôi nổi, chi phí thuế các loại và chi phí rủi ro đầu tư.

Kinh tế ngày càng phát triển thậm chí ngay cả khi kinh tế khó khăn, lượng cho vay của ngân hàng thương mại vẫn tăng rất nhanh và loại hình cho vay cũng trở nên vô cùng phong phú và đa dạng. Khi kinh tế tăng trưởng, đầu tư kinh doanh gia tăng vì vậy vốn vay tăng, còn khi kinh tế có khó khăn thì cho vay tiêu dùng lại phát triển. Tại hầu hết các nước công nghiêp trong nhóm những nước hàng đầu thế giới, cho vay của các ngân hàng thương mại đã chuyển dần từ cho vay ngắn hạn sang cho vay dài hạn. Ngược lại, ở các nước đang phát triển, cho vay ngắn hạn vẫn chiếm bộ phận lớn hơn cho vay dài hạn, xuất phát từ chỗ thiếu an toàn cho các khoản đầu tư dài hạn (trong đó có các tác nhân chủ yếu như tình hình tăng trưởng, lạm phát ...).

So với hoạt động cho vay thì hoạt động đầu tư của ngân hàng có quy mô và tỷ trọng nhỏ hơn trong mục tài sản sinh lời của ngân hàng thương mại. Phải sang đến những năm đầu thế kỷ XIX các ngân hàng thương mại mới mở rộng sự quan tâm của mình sang lĩnh vực đầu tư vào các ngành khác như bất động sản, công nghiệp, dịch vụ... So với hoạt động cho vay, hoạt động góp vốn đầu tư đem lại thu nhập cao hơn nhưng rủi ro cũng cao hơn do thu nhập từ hoạt động đầu tư không được xác định trước vì phải phụ thuộc vào hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp mà ngân hàng đầu tư vào. Mà các doanh nghiệp này khi hoạt động cũng chịu rất nhiều loại rủi ro chi phối như rủi ro chính sách, rủi ro vận hành, rủi ro tỷ giá…

Bên cạnh hoạt động cho vay và đầu tư, ngân hàng có thể tham gia vào thị trường chứng khoán tùy theo mức độ quy định của từng quốc gia. Ngân hàng có thể đóng nhiều vai trên thị trường chứng khoán cả ở thị trường sơ cấp lẫn thị trường thứ cấp như là người cung cấp hàng hoá cho thị trường chứng khoán hay là nhà bảo lãnh phát hành, hoặc nhà đầu tư, mua bán chứng khoán vì mục tiêu kiếm lời cho chính ngân hàng, hoặc thực hiện kinh doanh chứng khoán thông qua ủy thác của khách hàng.

Xem tất cả 144 trang.

Ngày đăng: 12/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí