này có thể có tác động rất lớn đến nhu cầu vốn của các ngân hàng khi triển khai tuân thủ các quy định về vốn trong các hiệp ước Basel.
Bảng 1.1: Tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tài sản có rủi ro theo Basel
Theo Basel II | Theo Basel III | |
Tỷ lệ vốn trên RWA | 8% | 11,5% |
Tỷ lệ vốn cổ phiếu phổ thông thường trên RWA | 2% | 4,5% - 7% |
Tỷ lệ vốn cấp 1 trên RWA | 4% | 6% |
Tỷ lệ vốn cấp 1 lõi trên RWA | 2% | 5% |
Có thể bạn quan tâm!
- , Cơ Sở Khoa Học Về Quản Trị Vốn Chủ Sở Hữu Của Ngân Hàng Thương Mại
- Vai Trò Của Vốn Chủ Sở Hữu Trong Hoạt Động Ngân Hàng Thương Mại
- Quản Trị Vốn Chủ Sở Hữu Của Các Ngân Hàng Thương Mại
- Mô Hình Kinh Doanh Vốn Hiệu Quả Các Mô Hình Ít Tốn Kém Về Vốn
- Ngân Hàng Đã Thành Công Trong Việc Tích Hợp Ic P Trong Cơ Cấu Quản Trị Và Tổ Chức Của Ngân Hàng, Ví Dụ Như Thành Lập Một Ủy Ban Chuyên Dụng Và Được
- Ví Dụ Điều Chỉnh Mô Hình Kinh Doanh Theo Đánh Giá Hiệu Quả Vốn
Xem toàn bộ 176 trang tài liệu này.
Nguồn: [76], [77], [78], [79], [80], [81]
Một số định nghĩa về vốn kinh tế được nêu ra dưới đây:
Theo [86]:“Vốn kinh tế có th định nghĩa là khoản vốn mà một giao dịch hoặc một đơn vị kinh doanh cần có nhằm hỗ trợ bảo vệ khỏi những rủi ro kinh tế mà đơn vị đó phát sinh, theo nhận thức của chính đơn vị này.”
Theo [83]: “Khoản vốn cần thiết đ tiếp tục kinh doanh ở mức độ tin cậy 99% hoặc hơn thế trong hoàn cảnh liên quan chấp nhận rủi ro.”
Theo [97]: “Khối lượng vốn mà một tổ chức quyết định là thận trọng, mong muốn và có th thực hiện được trong dài hạn không tính đến các yêu cầu pháp định.”
Vốn kinh tế đã được nêu trên, cụ thể EC chính là vốn được sử dụng như một khoản tự bảo hiểm để phòng chống các tổn thất của ngân hàng và các tổn thất này phụ thuộc vào rủi ro của các tài sản có ngân hàng. Ở đây khó khăn sẽ phát sinh khi giá trị các khoản rủi ro của ngân hàng không bao giờ là một con số cố định, chúng biến đổi phụ thuộc vào giá trị tương lai của các tài sản. Một số các công cụ đo lường để lượng hóa các con số không chắc chắn này (giá trị tương lai của các tài sản) đã được phát triển để tính toán mức vốn kinh tế và nhóm các công cụ này được gọi là công cụ đo lường rủi ro, chủ yếu là giá trị rủi ro (Value at Risk- VaR) và thâm hụt dự kiến (Expected Shortfall-ES).
Về căn ản, vốn kinh tế được tính toán thông qua việc xác định số vốn mà ngân hàng cần để đảm bảo rằng bảng cân đối kế toán có khả năng thanh toán qua một thời kỳ với những xác xuất được cụ thể hóa trước đó. Tuy nhiên, việc xác định, tính toán vốn kinh tế lại không đơn giản và đ i hỏi sự đầu tư lớn từ phía các ngân hàng. Về bản chất, xác định vốn kinh tế chính là việc xác định giá trị rủi ro (VaR) của mỗi ngân hàng theo những khẩu vị rủi ro và ý chí của mình, bởi vậy sẽ không có một công thức chung như tính toán vốn pháp định. Để đơn giản hơn, vốn kinh tế được tính toán theo công thức sau:
Trong đó: Kt là vốn kinh tế được xác định bằng tổng cấu phần vốn kinh tế trên cơ sở đo lường giá trị rủi ro từ mỗi đơn vị/mảng kinh doanh mà ngân hàng tham gia. Điển hình các mô hình tính toán vốn kinh tế sẽ cố gắng xác định tổn thất tối đa trong khoảng thời gian nhất định (thường là 1 năm) và ở mức tin cậy trên 99%. Một số thông lệ liên quan đến mô hình tính toán hiện tại bao gồm cách thức, tần suất, mục đích sử dụng đã được thảo luận, trao đổi và thực hiện bởi các ngân hàng phát triển trên thế giới. Thêm vào đó, các ngân hàng đều cố gắng duy trì mức vốn cao hơn mức vốn kinh tế được xác định.
Công thức tính toán vốn kinh tế và VaR được đưa ra với nhiều tham số, có những tham số phụ thuộc vào quan điểm của mỗi ngân hàng đối với các rủi ro. Về phương pháp, công thức tính toán vốn kinh tế đối với mỗi mảng nghiệp vụ, khu vực địa lý, hay đơn vị kinh doanh vô cùng phức tạp và tích hợp nhiều các phép xác suất và thống kê, đ i hỏi phân tích dữ liệu rất sâu nhằm tiến tới xác định vốn kinh tế với độ tin cậy cao. Trong thực tiễn, vốn kinh tế được tính toán dựa vào hệ thống phần mềm từ các hãng cung cấp phần mềm nổi tiếng cho các Ngân hàng lớn trên thế giới, đã được sử dụng và chứng minh qua thực tiễn để xác định mức vốn cần thiết, hoặc dựa vào các bảng biểu, số liệu (được lập qua các phương pháp thống kê, với khẩu vị và quan điểm rủi ro riêng của mỗi Ngân hàng).
Việc sử dụng vốn luật định và vốn kinh tế của các ngân hàng trên thế giới, cũng như các vấn đề có liên quan được phản ảnh thông qua [72] với một số điểm nhận xét cơ ản cho thấy mức độ áp dụng và phân biệt giữa hai khái niệm vốn này vẫn còn khác biệt rất nhiều, nhưng trong tiến trình chuẩn bị áp dụng Basel III, nhận thức và áp dụng vốn kinh tế ngày càng được coi trọng hơn. Những quan sát chính thu được từ nghiên cứu điều tra này bao gồm:
Các ngân hàng lúng túng trong quản trị vốn chủ sở hữu với sự phức tạp không dự kiến trong việc đồng thời sử dụng cả hai thước đo vốn trong việc ra các quyết định quản trị. Một số ngân hàng tiên tiến sử dụng song song cả hai thước đo cho những mục đích khác nhau nhưng chỉ có khoảng 10% các ngân hàng thực hiện được việc tích hợp hoàn toàn cả 2 thước đo. Nhưng điểm quan trọng là tất cả các ngân hàng đều nhìn nhận tầm quan trọng và ý nghĩa của việc áp dụng vốn kinh tế trong quản trị vốn chủ sở hữu trong đó có việc thiết lập các khoảng đệm vốn.
Tối ưu vốn đem lại nhiều lợi ích hơn nữa cho các ngân hàng. Phần lớn các ngân hàng đều thực hiện các chương trình tối ưu tài sản có rủi ro (RW ) để tiết kiệm được từ 5% đến 15% RWA theo những quan sát chung, nhưng các ngân hàng đều nhìn nhận vẫn còn rất nhiều cơ hội cho việc tối ưu tài sản có rủi ro. Nói cách khác, các ngân hàng có thể tiết kiệm vốn nhiều hơn nữa khi đo lường rủi ro chính xác hơn.
Các ngân hàng nhìn nhận việc tập trung tối ưu vốn sẽ tạo được nhiều cơ hội hơn cho các ngân hàng khi điều chỉnh các mô hình kinh doanh thích hợp và đem lại những cải thiện đáng kể cho các ngân hàng, ví dụ như việc cơ cấu lại các mảng hoạt động kinh doanh tốn kém vốn, dịch chuyển danh mục, … Các ngân hàng cũng nhận thấy còn rất nhiều cơ hội mặc dầu thách thức cũng rất lớn trong việc dịch chuyển danh mục sản phẩm, định giá, … nhằm đưa ra những giải pháp tốt về vốn, các ngân hàng hàng đầu đã có được những kết quả tốt hơn trên vốn chủ sở hữu.
Ở khía cạnh khác, các quy trình phân bổ vốn chủ yếu vẫn được tiến hành ở mức độ an đầu nhất định với việc các ngân hàng phần lớn thực hiện theo hàng năm từ dưới đi lên, chỉ mới có ít các ngân hàng có cái nhìn và kế hoạch dài hạn hơn về phân bổ vốn.
Việc đo lường vốn dựa vào vốn theo quy định pháp luật và vốn kinh tế dựa vào hai thước đo có thể gây khó khăn nhất định cho các ngân hàng, bởi vậy có một giải pháp mà một số ngân hàng thiết lập ra nhằm tích hợp vốn kinh tế và vốn theo quy định vào một mô hình giám sát sức khỏe tài chính ngân hàng liên tục. Nhiều ngân hàng thực hiện việc này rất hiệu quả bằng cách hoặc sử dụng con số vốn tối đa của trụ cột 1 và trụ cột 2 (Basel II) về yêu cầu vốn, hoặc bằng cách điều chỉnh tương ứng vốn kinh tế với vốn theo quy định (đưa ra một “hệ số” nhằm chuyển đổi giữa 2 loại vốn). Một phương pháp tinh xảo hơn cần đưa ra nhằm hướng đến phát triển một mô hình tích hợp vốn liên tục của ngân hàng. Các lựa chọn có thể trong quá trình xây dựng một mô hình tích hợp cho các ngân hàng được một số ngân hàng đưa ra nhằm có được một thước đo chính xác hơn về vốn.
Như đã nêu trên, khi xét đến sự đầy đủ của vốn từ khía cạnh vốn kinh tế (EC) chính là ước lượng nội bộ về sự đầy đủ vốn để có thể tiến hành kinh doanh và cần có sự phân biệt tách bạch bởi các ngân hàng khi ước lượng vốn thì có một số khái niệm khác nhau về vốn và cần song song tính toán, đánh giá mức vốn sẵn có để đối diện với các tổn thất vốn tiềm tàng. Khái niệm đầu tiên chính là giá trị sổ sách của vốn, chính là sự chênh lệch giữa tài sản có và tài sản nợ theo giá trị sổ sách. Thứ hai chính là giá trị thị trường của vốn, là sự chênh lệch giữa tài sản có và tài sản nợ tính theo giá trị thị trường. Thứ ba là giá trị vốn hóa của ngân hàng tính bằng giá trị thị trường của cổ phiếu. Tùy thuộc vào mỗi quan điểm, vốn sẵn có và vốn rủi ro có thể khác nhau rất nhiều.
Ví dụ minh họa sau cho thấy sự khác biệt giữa vốn pháp định và vốn kinh tế:
Biểu đồ 1.1: Sự khác biệt giữa vốn pháp định và vốn kinh tế
Nguồn: [30], [31], [33]
Theo bảng so sánh trên có thể thấy mức vốn kinh tế và vốn theo yêu cầu của pháp luật là khác nhau, vốn kinh tế bao gồm đo lường đến tất cả các loại rủi ro.
Đo lường rủi ro
Hai phương pháp đo lường rủi ro thông dụng nhất trong quản trị vốn chủ sở hữu như nêu ở trên là VaR và ES và các nội dung liên quan đến hai phương pháp này đã được các nhà kinh tế thảo luận tương đối chi tiết. Khái niệm về các phương pháp về đo lường rủi ro cũng đã được nghiên cứu và phát triển, thảo luận trong nhiều tài liệu và trong các tài liệu hướng dẫn của Ủy ban Basel, tác giả không đi sâu vào những phương pháp và công cụ đo lường này. Định nghĩa đơn giản giá trị rủi ro là tổn thất tối đa với xác xuất cho trước trong một khoảng thời gian nhất định, còn thâm hụt dự kiến liên quan đến phần vốn sẽ thiếu hụt do các tổn thất dự kiến.
1.2.3 Nội dung quản trị vốn chủ sở hữu của ngân hàng
Với nhà quản trị ngân hàng, mục đích quản trị vốn chủ sở hữu của ngân hàng chính là đảm bảo vốn phải được cung cấp đầy đủ theo cơ cấu tối ưu để đảm bảo triển khai được các mô hình kinh doanh hiệu quả nhất, đánh giá được hiệu
quả và kết quả của mỗi mảng, mỗi đơn vị kinh doanh, sản phẩm, phòng chống rủi ro và đảm bảo các tỷ lệ về vốn theo yêu cầu của pháp luật. Thực tiễn hoạt động và quản trị vốn chủ sở hữu tại các nước kinh tế phát triển, đặc biệt kinh nghiệm trong triển khai Basel II và Basel III là những định hướng cụ thể để các nước đang phát triển học hỏi và rút kinh nghiệm. Với những khái niệm và công cụ liên quan đến vốn như nêu trên, các nhà quản trị ngân hàng sẽ sử dụng thế nào, theo những quy trình, cách thức thế để quản trị vốn chủ sở hữu phù hợp với mỗi ngân hàng, mỗi quốc gia và theo thông lệ tốt.
Những nguyên tắc cơ ản trong quy trình quản trị vốn chủ sở hữu:
- Các NHTM phải có chiến lược và chính sách rõ ràng minh bạch trong quản trị vốn chủ sở hữu trong tổng thể quản trị tài chính NHTM, bao gồm các chính sách và quy trình tăng vốn, chính sách chi trả cổ tức, chính sách về chi phí vốn;
- Bên cạnh tính toán vốn kinh tế để phát triển kinh doanh ngân hàng, việc tính toán vốn để đảm bảo các quy định pháp luật là tối quan trọng, vì đây cũng là một trong những nội dung trọng yếu ảnh hưởng đến ngân hàng. Các tính toán về vốn và các chỉ số cũng được mô tả trong các công bố thông tin và báo cáo thường niên của các ngân hàng tại các nước phát triển;
- Quản trị vốn chủ sở hữu phải gắn liền với các tính toán khoa học và nghệ thuật, cân nhắc đến tất cả các loại hình rủi ro trong ngân hàng để có được mức độ đáng tin cậy về ảnh hưởng kinh tế của các rủi ro này đến hoạt động của ngân hàng nói chung và đến vốn ngân hàng nói riêng;
- Việc đánh giá hoạt động của toàn ngân hàng, cũng như từng mảng kinh doanh, sản phẩm phải được dựa trên các giá trị mà cả ngân hàng và từng mảng kinh doanh đóng góp lại, có tính đến các yếu tố chi phí khác được tính toán một cách khoa học và hợp lý bên cạnh chi phí về vốn ngân hàng;
- Việc phân bổ hay đầu tư vốn ngân hàng một mặt phản ánh khẩu vị và mức độ chấp nhận rủi ro thông qua việc ấn định mức vốn kinh tế cho mỗi mảng kinh doanh, nhưng mặt khác cũng làm ảnh hưởng đến mô hình kinh doanh và gián
tiếp ảnh hưởng đến chiến lược của mỗi ngân hàng. Thêm vào đó c n có yếu tố con người và việc phân bổ hay đầu tư vốn này c n được sử dụng để đánh giá hoạt động của toàn ngân hàng và của mỗi mảng kinh doanh nên việc phân bổ vốn bên cạnh yếu tố khoa học còn có yếu tố nghệ thuật;
- Các ngân hàng cần đưa ra tiêu chí quyết định cấu trúc vốn tối ưu dựa trên tính sẵn có của vốn (khi tăng vốn), chi phí vốn ngân hàng;
- Việc tổ chức, quản trị, vận hành các ên liên quan đến quản trị vốn chủ sở hữu cần được thể chế hóa, cụ thể hóa để vừa nâng cao tính trách nhiệm của mỗi bên liên quan, vừa khuyến khích được tính chủ động của các bên tham gia.
Nhìn chung, quản trị vốn chủ sở hữu của ngân hàng bao gồm các cấu phần chủ yếu được nêu sau đây, điểm cần lưu ý là những cấu phần này được xây dựng nhằm mục đích quản trị vốn chủ sở hữu từ góc nhìn bên trong, nội tại, không chỉ nhằm phục vụ cho việc tuân thủ các quy định về vốn bên ngoài.
1.2.3.1 Chiến lược về vốn và các chỉ tiêu vốn
Chiến lược về vốn và các chỉ tiêu vốn đưa ra và xác định các định nghĩa và triết lý quản trị vốn chủ sở hữu, các chỉ số đo lường và các chỉ tiêu vốn. Trong cấu phần này, quan điểm về vốn chủ sở hữu của một ngân hàng cần đưa ra một cách thẳng thắn và minh bạch gắn kết với một chiến lược về vốn được thông qua bằng các chính sách và quy định nội bộ cụ thể. Một số ngân hàng đưa những chính sách này một cách công khai ra công chúng trong khi các ngân hàng khác có thể chỉ lưu hành nội bộ các văn ản này. Về căn ản, chiến lược về vốn chủ sở hữu của một ngân hàng bao gồm những điểm sau:
o Nhìn nhận của ngân hàng về vốn chủ sở hữu, quan điểm đối với việc tăng giảm vốn và giá trị của cổ đông;
o Mức vốn mục tiêu trong mối tương quan đối với các quy định pháp luật cũng như đánh giá nội bộ về vốn;
o Các chỉ tiêu mục tiêu về vốn bao gồm nhưng không giới hạn trong mức kỳ vọng về lợi nhuận trên vốn, mức an toàn vốn mục tiêu, tỷ lệ chi trả cổ tức bằng tiền mặt và cách thức ứng xử đối với lợi nhuận giữ lại;
o Các nguyên tắc cơ ản trong phân bổ hay đầu tư vốn chủ sở hữu cho các mảng kinh doanh khác nhau, các giới hạn liên quan.
1.2.3.2 Chẩn đoán và đo lường vốn
Để đánh giá về hiện trạng vốn chủ sở hữu và tác động của các yêu cầu pháp luật hiện hành, cụ thể tại các nước trên thế giới là Basel II, III. Việc chẩn đoán vốn thực chất liên quan đến đánh giá các rủi ro, giá trị rủi ro cũng như quan điểm của mỗi ngân hàng về rủi ro (khẩu vị) và đưa ra những ước lượng chính xác về nhu cầu vốn, so sánh với mức vốn hiện có để đưa ra những quyết định về cấu trúc, số lượng và chất lượng của mỗi loại vốn cũng như cách thức bổ sung vốn (thông qua điều chỉnh chính sách cổ tức, phát hành các công cụ tài chính vốn và nợ dài hạn,…)
o Theo trụ cột 2 của Basel II, một quy trình về đánh giá an toàn vốn nội bộ (ICAAP) là yêu cầu bắt buộc đối với các ngân hàng:
o Xét về bản chất, đo lường vốn chính là đo lường về rủi ro ngân hàng, do vậy việc có được những phương pháp và công cụ đo lường rủi ro càng chính xác thì càng xác định vốn rõ ràng và chính xác hơn.
o Những rủi ro cần đo lường đã được đề cập trong các tài liệu của BCBS –
IS, đặc biệt những rủi ro về thị trường, tín dụng, rủi ro hoạt động & kinh doanh cùng những loại rủi ro khác, những rủi ro này tác động trực tiếp đến vốn rủi ro riêng lẻ cũng như tổng hợp vốn rủi ro.
Nhằm hỗ trợ nhà quản lý ngân hàng ra các quyết định liên quan đến quản trị và phân bổ vốn, mỗi ngân hàng cần có được một bức tranh tích hợp về rủi ro. Thách thức về việc phát triển các công cụ đo lường định lượng về rủi ro, ví dụ như có được ước lượng tổng hợp về vốn kinh tế, bao trùm nhiều nguồn rủi ro khác nhau trải qua những mảng/đơn vị kinh doanh khác nhau rất lớn nhưng cũng có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong đo lường vốn.
Ở đây c n một điểm nữa cần quan tâm, cũng là chủ đề của nhiều thảo luận, nghiên cứu là tổng hợp rủi ro và những lợi ích về quy mô của việc đa dạng hóa có thể có được từ việc tham gia kinh doanh trên nhiều mảng dịch vụ tài chính