Quản Trị Vốn Chủ Sở Hữu Của Các Ngân Hàng Thương Mại


Trường hợp ngân hàng phá sản hoặc ngừng hoạt động, thứ tự các khoản được hoàn trả là: các khoản tiền gửi, nghĩa vụ với chính phủ và người lao động, các khoản vay, sau đó là các giấy nợ có khả năng chuyển đổi, cổ phần ưu đãi và cuối cùng là cổ phần thường. Do đó, nếu quy mô vốn chủ sở hữu càng lớn, người gửi tiền và người cho vay sẽ thấy yên tâm hơn đồng thời cũng góp phần giảm bớt rủi ro cho cơ quan ảo hiểm tiền gửi.

- Cung cấp năng lực tài chính cho quá trình tăng trưởng, điều tiết sự tăng trưởng, phát triển mở rộng quy mô, phát triển các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng, vốn chủ sở hữu góp phần điều chỉnh các hoạt động của ngân hàng: rất nhiều các quy định về hoạt động ngân hàng của các cơ quan quản lý có liên quan chặt chẽ với vốn chủ sở hữu như: quy mô nguồn tiền gửi tính theo tỷ lệ với vốn chủ sở hữu, quy mô cho vay tối đa đối với một hoặc một nhóm khách hàng, nắm giữ cổ phần của công ty khác, mở mạng lưới chi nhánh, mua sắm tài sản cố định, thành lập công ty con... đều tính theo tỷ lệ với vốn chủ sở hữu. Như vậy, quy mô và cấu trúc hoạt động của ngân hàng được điều chỉnh theo vốn chủ sở hữu.

Vốn chủ sở hữu chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng nhưng lại có vai trò rất quan trọng như phân tích trên.

Vai trò hoạt động của vốn chủ sở hữu

Là điều kiện bắt buộc theo quy định của pháp luật để ngân hàng có thể hoạt động, vốn chủ sở hữu tạo lập tư cách pháp nhân và duy trì hoạt động của ngân hàng.

Để hoạt động, an đầu ngân hàng phải có được số vốn tối thiểu (vốn pháp định). Số vốn này trước hết dùng để đầu tư trang thiết bị, công nghệ ngân hàng, nhà cửa cần thiết cho quá trình kinh doanh, phần còn lại tham gia vào hoạt động tự doanh của ngân hàng như cho vay hoặc kinh doanh đầu tư khác theo qui định của Pháp luật.

Để cạnh tranh tốt, các ngân hàng không ngừng đổi mới công nghệ ngân hàng, nâng cao năng suất lao động và an toàn cho ngân hàng. vốn chủ sở hữu


được sử dụng để đầu tư công nghệ mới, mở thêm chi nhánh, quầy giao dịch, văn ph ng đại diện...

- Cung cấp năng lực tài chính cho quá trình tăng trưởng, mở rộng quy mô, phạm vi hoạt động cũng như sự phát triển của các sản phẩm dịch vụ mới.

Vai trò điều chỉnh

Các cơ quan quản lý có thể điều chỉnh hoạt động Ngân hàng thông qua qui định các giới hạn liên quan trên vốn chủ sở hữu.

- Quy định về mức vốn tối thiểu khi thành lập;

- Quy định về giới hạn huy động vốn;

- Quy định về giới hạn sử dụng vốn;

- Quy định quy mô vốn và mức độ tăng trưởng vốn để cho phép mở rộng quy mô của ngân hàng;

- Quy định về tỉ lệ an toàn trong kinh doanh.

Ngoài ra, Vốn chủ sở hữu có vai tr điều chỉnh các hoạt động của ngân hàng: thông thường theo Luật tổ chức tín dụng và các quy chế an toàn trong kinh doanh tiền tệ thì phạm vi hoạt động cũng như quy mô kinh doanh của một ngân hàng hoàn toàn phụ thuộc vào vốn chủ sở hữu. Vốn chủ sở hữu được dùng vào các giới hạn sau đây: tỷ lệ đầu tư cổ phần hoặc liên doanh với vốn chủ sở hữu, tỷ lệ cho vay các đối tượng ưu đãi so với vốn chủ sở hữu; là căn cứ để giới hạn các hoạt động kinh doanh tiền tệ...Nếu có sự vi phạm vượt các mức giới hạn quy định thì NHTM bị đánh giá ở tình trạng mất an toàn.

1.2. Quản trị vốn chủ sở hữu của các ngân hàng thương mại


1.2.1 Khái niệm

Với việc quản trị vốn chủ sở hữu của ngân hàng, nhìn chung vẫn chưa có những định nghĩa thống nhất về quản trị vốn chủ sở hữu của ngân hàng, mà chỉ liên quan nhiều đến mục đích của quản trị vốn chủ sở hữu. Theo tác giả, định nghĩa khái lược về quản trị vốn chủ sở hữu của NHTM là một hệ thống phương pháp luận và hành động đảm bảo vốn ngân hàng được đầy đủ và sử dụng hiệu quả


theo những khẩu vị rủi ro đã được xác định, tuân thủ theo các quy định của pháp luật, đem lại lợi ích kinh tế cho các chủ sở hữu và đảm bảo ngân hàng vẫn sẽ tiếp tục tồn tại và phát triển.

Quản trị vốn chủ sở hữu thực chất là xây dựng các quy định về quản lý vốn cùng các công cụ đo lường và trên cơ sở đó ngân hàng xác định quy mô và cấu trúc vốn chủ sở hữu đảm bảo đáp ứng tuân thủ pháp luật, đáp ứng yêu cầu kinh doanh, bảo toàn và phát triển vốn chủ sở hữu có hiệu quả theo các tiêu chí được xác định tùy thuộc vào bên liên quan đến vốn chủ sở hữu. Các nội dung thể hiện cho những điểm đã nêu trên đó là:

Quản trị vốn chủ sở hữu được đặt trong mối quan hệ mật thiết với rủi ro. Khung quản trị vốn chủ sở hữu là quá trình tổ chức, tập hợp các ước cơ ản để đo lường, đánh giá, phân bổ vốn và ra quyết định tác động đến vốn và tài sản trong mối quan hệ giữa vốn và rủi ro.

Khung quản trị vốn chủ sở hữu của ngân hàng thương mại gồm có:

Xác định vốn tự có;

Đo lường vốn và xác định nhu cầu vốn;

Phân bổ vốn;

Đánh giá mức độ đầy đủ của vốn và đánh giá hiệu quả sau phân bổ vốn;

Ra các quyết định liên quan đến quản trị vốn chủ sở hữu.

Tổ chức triển khai khung quản trị vốn chủ sở hữu chủ.

1.2.2 Mục đích quản trị vốn chủ sở hữu của ngân hàng thương

mại

Đối với quản trị vốn chủ sở hữu của ngân hàng từ những khía cạnh hay đối

tượng khác nhau có thể khác nhau về mục đích, cụ thể:

- Đối với cơ quan quản lý nhà nước, mục đích quản trị vốn chủ sở hữu các ngân hàng nhằm đảm bảo quyền lợi của những người gửi tiền, đồng thời đảm bảo ngân hàng có đủ vốn chủ sở hữu để phòng ngừa được các rủi ro trong hoạt


động ngân hàng, đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng trong tổng thể nền kinh tế;

- Đối với cổ đông người sở hữu ngân hàng, mục đính chủ yếu trong quản trị vốn chủ sở hữu của ngân hàng là có lợi ích tối đa trên mỗi đồng vốn bỏ ra, đồng thời không bị mất vốn do các rủi ro trong hoạt động và kinh doanh;

- Đối với ban quản trị ngân hàng, vốn chủ ngân hàng phải được cung cấp đầy đủ để đảm bảo triển khai được các mô hình kinh doanh, phòng chống rủi ro và đảm bảo theo các tỷ lệ an toàn vốn theo yêu cầu của pháp luật và đảm ảo hiệu quả sử dụng vốn.

- Đối với khách hàng, bất kể vốn ngân hàng thế nào thì ngân hàng cũng phải đưa ra được các đề xuất có giá trị, đáp ứng được các yêu cầu của khách hàng, thực hiện cam kết của ngân hàng với khách hàng.

Hoạt động kinh doanh ngân hàng chính là việc tạo ra thu nhập ngân hàng từ những giả thiết được tính toán kỹ lưỡng và quản trị các rủi ro. Mục tiêu của các chủ nợ và nhà đầu tư vào ngân hàng chính là việc kỳ vọng nhà quản trị ngân hàng chấp nhận các rủi ro được tính toán cân nhắc và có mức giá tương ứng với các rủi ro nhằm đảm bảo rằng các khoản tiền đầu tư được hoàn trả cùng với mức lãi mang tính bền vững và giá trị của ngân hàng được bồi đắp gia tăng trong dài hạn. Rủi ro và cơ hội cùng với những chi phí hợp lý luôn được các nhà ngân hàng tìm kiếm và cân nhắc, để thành công, các ngân hàng đảm bảo mức thu nhập hợp lý đối với các rủi ro được chấp nhận. Một số vấn đề sau được các nhà quản trị ngân hàng thường xuyên xem xét nhằm đạt được mục đích như vậy:

- Rủi ro là gì, các rủi ro mà ngân hàng gặp phải hay phát sinh trong quá trình kinh doanh, có thể đo lường các rủi ro này một cách nhất quán để có thể so sánh với nhau, mức độ hay mức giá trị của rủi ro (trên thị trường) là bao nhiêu và các rủi ro nào mà ngân hàng xác định có thể chấp nhận;

- Cấu trúc vốn của NHTM nên như thế nào, vốn cấp 1, cấp 2 và các nguồn dự trữ khác;


- Ngân hàng có đủ vốn chủ sở hữu để hỗ trợ các rủi ro mà ngân hàng có thể chấp nhận;

- Ngân hàng có thể đặt ra một hệ thống giới hạn chặn đối với toàn bộ rủi ro và các mảng kinh doanh nhằm đảm bảo ngân hàng không gặp phải quá nhiều rủi ro;

- Rủi ro có thể tích hợp được vào hệ thống đo lường đánh giá hoạt động và hệ thống khuyến khích các mảng kinh doanh đảm bảo lợi ích của các nhân viên thống nhất với lợi ích của ngân hàng.

Nhằm giải quyết các vấn đề này, nhiều ngân hàng đã phải đưa ra các hệ thống giám sát và kể cả việc tái thiết kế lại các quy trình và phương pháp luận nội bộ.

Theo [91] hai vấn đề vô cùng mấu chốt trong quản trị vốn chủ sở hữu của ngân hàng là quản trị vốn chủ sở hữu, liên quan đến việc xác lập cấu trúc vốn tối ưu của ngân hàng, phân bổ vốn liên quan đến các lựa chọn và quy trình ra quyết định phân bổ vốn tối ưu xuyên suốt qua các đơn vị kinh doanh trong ngân hàng. Tất cả các quá trình ra quyết định dẫn đến việc phân bổ vốn, do vậy sẽ bao gồm việc xác lập các mục tiêu lợi nhuận được điều chỉnh theo rủi ro đối với từng đơn vị/lĩnh vực kinh doanh khác nhau và việc đánh giá thực hiện mục tiêu của các đơn vị đó. Ở đây vai tr hỗ trợ của quản trị rủi ro trong ngân hàng được thể hiện trong việc đưa ra mức vốn chủ sở hữu cần thiết để các nhà quản trị, lãnh đạo ngân hàng có thể có được các công cụ và thước đo khách quan để có được các quyết định về cấu trúc vốn tối ưu, đo lường được lợi nhuận đánh giá hoạt động của các đơn vị kinh doanh trong ngân hàng để có được các quyết định về phân bổ vốn.

Cấu trúc vốn chủ sở hữu tối ưu trong hoạt động ngân hàng được xác lập dựa trên cơ sở tối đa hóa lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu và mang tính bền vững, cụ thể là vốn cổ phần và tối đa giá trị vốn hóa ngân hàng. Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, một số các khoản nợ, công cụ nợ, trái phiếu do ngân hàng phát hành có thể được tính vào trong vốn chủ sở hữu để tính toán tỷ lệ an toàn vốn theo các quy định pháp luật. Dựa trên những quy định này, các ngân hàng có thể hướng tới


việc xác định cấu trúc vốn chủ sở hữu tối ưu và tạo giá trị cho cổ đông thông qua việc phát hành trái phiếu-công cụ nợ dài hạn với các tiêu chí để xác lập như mức chi phí so sánh giữa chi phí vốn góp, các vốn chủ sở hữu khác và chi phí tài chính phải trả cho trái phiếu, hay nói cách khác việc phát hành trái phiếu dài hạn để được tính tương đương như vốn chủ sở hữu trong tính toán tỷ lệ an toàn vốn CAR được dựa trên các nguyên tắc: (i) chi phí tài chính cho trái phiếu phải thấp hơn chi phí vốn chủ sở hữu khác và (ii) xác định chính xác khối lượng phát hành để tránh lãng phí khi phần trái phiếu phát hành vượt quá ngưỡng được phép theo quy định pháp luật. Việc xác định chi phí vốn chủ sở hữu thông thường được thực hiện thông qua phương pháp Mô hình định giá tài sản vốn (CAPM-Capital Asset Pricing Model).

Tuy nhiên, thực tiễn lại khác hơn rất nhiều như việc quản trị vốn chủ sở hữu vô cùng khó khăn khi vấn đề quản trị rủi ro tại ngân hàng không có được các thước đo chính xác hay hợp lý cho các rủi ro mà ngân hàng gánh chịu trong quá trình kinh doanh. Đối với nhiều rủi ro đã có công cụ đo lường tính toán nhưng, ngay cả khi đã có phương pháp đối với một loại rủi ro nhất định thì cũng không phải lúc nào cũng đưa vào áp dụng, đôi khi chỉ là lý do đơn giản là chi phí quá lớn để áp dụng chẳng hạn. Thêm vào đó, đo lường giá trị rủi ro cho các rủi ro khác nhau đôi khi rất khác nhau và phức tạp để khó có thể tổng hợp được một con số về vốn. Và ngay cả khi có được con số đó, các quyết định liên quan đến cấu trúc và số lượng vốn còn phụ thuộc nhiều các yếu tố khác nữa (ví dụ nhà đầu tư, các tổ chức xếp hạng tín nhiệm). Tương tự vậy đối với vấn đề phân bổ vốn, việc phân bổ vốn không chỉ là việc phân bổ các nguồn vốn, tài sản giản đơn trong ngân hàng giữa các đơn vị kinh doanh hay nghiệp vụ khác nhau, ví dụ quản trị rủi ro có thể ước lượng chính xác về lợi nhuận điều chỉnh theo rủi ro trong quá khứ, nhưng lợi nhuận trong tương lai có thể khác và chỉ có thể thực hiện ước lượng được thông qua sự thấu hiểu về các khía cạnh chiến lược của mỗi nghiệp vụ kinh doanh. Việc tái phân bổ vốn giữa các lĩnh vực kinh doanh có thể tác động đến chiến lược của ngân hàng và có thể làm thay đổi đến chiến lược


ngân hàng. Việc thay đổi chiến lược ngân hàng không chỉ đơn giản dựa trên việc đo lường các kết quả tài chính trong quá khứ. Hơn nữa, thực tiễn là việc đo lường kết quả và phân bổ vốn liên quan đến yếu tố con người mà không chỉ thuần túy là kỹ thuật. Để hiểu rõ hơn về vốn chủ sở hữu và quản trị vốn chủ sở hữu có liên quan tới rủi ro và vốn kinh tế được nghiên cứu qua các nội dung sau:

Vốn kinh tế

Những khái niệm cơ ản trong vốn chủ sở hữu và quản trị vốn chủ sở hữu của ngân hàng bao gồm giá trị rủi ro, vốn kinh tế và đánh giá hiệu quả trên vốn. Sự khác biệt giữa vốn kinh tế (economic capital) và vốn theo quy định của pháp luật (regulartory capital). Vốn kinh tế (Economic Capital-EC) là khoản vốn của chủ sở hữu mà mỗi ngân hàng hoạch định để đủ chống đỡ lại những tổn thất tiềm tàng vốn có trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng, điều này được thể hiện qua hoạt động cho vay, kinh doanh tiền tệ, vận chuyển tiền, gian dối của nhân viên ngân hàng, uy tín và hình ảnh ngân hàng, … Tập trung sự quan tâm của các ngân hàng vào EC là một phần trong dịch chuyển về quản trị của ngành ngân hàng toàn cầu trong việc đo lường rủi ro, tối ưu đo lường hiệu quả, đưa ra các quyết sách chiến lược dựa trên các thông tin chính xác từ đo lường rủi ro theo thông lệ và do đó củng cố khả năng sinh lời và tính cạnh tranh dài hạn của ngân hàng. Từ phía các nhà quản lý nhà nước, vốn theo quy đinh pháp luật được xác định, định nghĩa ởi các cơ quan quản lý, bao gồm vốn cấp 1, cấp 2 và các nguồn vốn bổ sung khác và vốn ngân hàng được dùng để đảm bảo ngân hàng có thể chống đỡ được các tổn thất tiềm tàng chủ yếu mà không gây ra cuộc khủng hoảng ngân hàng. Quản trị vốn chủ sở hữu theo quy định của pháp luật hỗ trợ đảm bảo tính hợp lý và ổn định của lĩnh vực ngân hàng và bảo vệ người gửi tiền trong khi quản trị vốn chủ sở hữu kinh tế của các nhà quản trị tập trung vào việc xác định các hoạt động kinh doanh kiến tạo giá trị để làm thỏa mãn nhu cầu thông tin của cổ đông nhà đầu tư và với các cơ quan quản lý để thực hiện các yêu cầu pháp luật. Trong khuôn khổ của luận án này, vốn kinh tế sẽ được phân tích kỹ hơn do luận án tập trung chủ yếu vào quản trị vốn chủ sở hữu từ phía


NHTM. Thêm nữa, do các ngân hàng phải đối diện với nhóm các loại rủi ro lớn và các ngân hàng đã tìm thấy việc hoạch định vốn kinh tế đã giúp cho các ngân hàng xác định được các rủi ro, kết nối các rủi ro với các hoạt động kinh doanh cụ thể và trong quá trình đó hiểu được ở đâu và như thế nào mà các hoạt động kinh doanh kiến tạo ra giá trị cho các cổ đông.Tuy nhiên, mặc dầu các ngân hàng trên toàn cầu đã có những tiến bộ nhất định, các ngân hàng vẫn tiếp tục đề cập nghiên cứu các vấn đề kỹ thuật gắn liền với quản trị vốn chủ sở hữu kinh tế.

Theo mô tả trên, vốn luật định sẽ quyết định mức vốn tối thiểu mà một ngân hàng phải duy trì theo các quy định pháp luật. Vốn luật định căn cứ vào các rủi ro tín dụng và thị trường tiềm ẩn và theo quy định hiện hành tại Việt Nam mức vốn này phải đạt tối thiểu là 9% trên tài sản có rủi ro.

Tỷ lệ vốn tối thiểu = Trong đó CR Vốn luật định RWA Tài sản có rủi ro Công thức này được cụ 1 Trong đó CR: Vốn luật định RWA: Tài sản có rủi ro

Công thức này được cụ thể như sau:


Điều 9 của TT 36 cũng đưa ra công thức này các phụ lục của Thông tư đưa ra 2

Điều 9 của TT 36 cũng đưa ra công thức này, các phụ lục của Thông tư đưa ra cách xác định vốn riêng lẻ và vốn hợp nhất cũng như cách xác định tổng tài sản có rủi ro riêng lẻ và hợp nhất, đồng thời quy định mức tối thiểu tỷ lệ an toàn vốn.

Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu riêng lẻ (%) =

Vốn tự có riêng lẻ

x 100%

Tổng tài sản Có rủi ro riêng lẻ

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 176 trang tài liệu này.

Quản trị vốn chủ sở hữu tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội MB - 5



Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu hợp nhất (%)=

Vốn tự có hợp nhất

x100%

Tổng tài sản Có rủi ro hợp nhất

Các hiệp ước asel cũng quy định rõ ràng về tỷ lệ này như ảng 1.1, qua đây có thể quan sát yêu cầu về vốn với các ngân hàng ngày càng nâng cao, điều

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 07/12/2022