Giải Pháp Tăng Cường Công Tác Quản Trị Rủi Ro Trong Kinh Doanh Của Các Nhtm Việt Nam Theo Hiệp Ước Basel


hình cung cấp các dịch vụ ngân hàng, tạo ra một sân chơi bình đẳng cho các ngân hàng.

Về hình thức hiện diện của TCTD nước ngoài tại Việt Nam, theo cam kết gia nhập WTO, từ 01/4/2007, ngoài hình thức văn phòng đại diện, chi nhánh, ngân hàng liên doanh, các TCTD nước ngoài sẽ được phép thành lập ngân hàng 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam. Ngoài ra, về thời gian hoạt động cũng được nâng lên tối đa không quá 99 năm (thời hạn này trước đây là 20 năm).

Về phạm vi hoạt động và loại hình dịch vụ ngân hàng, các TCTD nước ngoài hoạt động tại Việt Nam được cung cấp hầu hết các loại hình dịch vụ ngân hàng như: cho vay, nhận tiền gửi, cho thuê tài chính, kinh doanh ngoại tệ, các công cụ thị trường tiền tệ, các công cụ tài chính phái sinh, môi giới tiền tệ, quản lý tài sản, cung cấp dịch vụ thanh toán, tư vấn và thông tin tài chính. Các chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được mở các điểm giao dịch ngoài trụ sở chi nhánh nhưng được phép lắp đặt và vận hành các máy giao dịch tự động (ATM) và phát hành thẻ tín dụng như các ngân hàng trong nước.

Đặc biệt, lộ trình mở cửa của hệ thống ngân hàng Việt Nam để gia nhập WTO đã chính thức tiến đến mức thực hiện đối xử quốc gia (NT) giữa các ngân hàng nội địa và ngân hàng nước ngoài (đối xử NT quy định phải dành cho hàng hoá, dịch vụ và doanh nghiệp nước ngoài sự đối xử bình đẳng như dành cho hàng hoá, dịch vụ và doanh nghiệp trong nước). Cụ thể, từ 1/1/2011, chi nhánh ngân hàng nước ngoài sẽ được đối xử bình đẳng quốc gia theo cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO. Do đó, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài cũng phải bình đẳng như các ngân hàng thương mại trong nước trong việc áp dụng các giới hạn về cấp tín dụng và bảo lãnh. Như vậy, sức ép cạnh tranh từ khối ngân hàng nước ngoài sẽ rất lớn, bởi kể từ ngày 1/1/2011, các ngân hàng nước ngoài sẽ được nhận tiền gửi bằng đồng Việt Nam từ các cá nhân Việt Nam mà ngân hàng không có quan hệ tín dụng, không còn bị hạn chế theo tỷ lệ trên mức vốn được cấp của chi nhánh. Vì thế, các ngân hàng nhỏ trong nước buộc phải cải tổ toàn diện, nâng cao tính thanh khoản và liên kết với nhau để tồn tại.


Có thể thấy, khi những rào cản đối với các ngân hàng nước ngoài được tháo bỏ sẽ mở ra một sân chơi lành mạnh hơn cho các ngân hàng. Các ngân hàng nước ngoài sẽ được phát triển tự do hơn trên mảng tài chính ngân hàng trong khi các ngân hàng trong nước sẽ không ngừng cải tiến sản phẩm và nâng cao dịch vụ của mình để cùng cạnh tranh. Đây cũng được coi như động lực về cạnh tranh để các ngân hàng thương mại Việt Nam đi lên. Và nếu một trong số các ngân hàng Việt Nam chưa có sự chuẩn bị kỹ và năng lực cạnh tranh còn yếu kém sẽ bị đào thải và lúc đó phải sáp nhập hoặc bán lại. Thị trường sẽ sàng lọc và những ngân hàng nào quản trị tốt, năng lực cạnh tranh cao sẽ tồn tại và phát triển mạnh.

Để tạo thế cân bằng trước sức ép cạnh tranh ngày càng gia tăng, điều quan trọng là hệ thống ngân hàng trong nước phải tiếp tục quyết tâm thực hiện mục tiêu cải cách, nâng cao năng lực tài chính, hoạt động và quản trị ngân hàng, đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ và khai thác tối đa các khoảng trống hiện nay trong thị trường dịch vụ ngân hàng. Bên cạnh đó, vai trò quản lý, điều tiết của Ngân hàng Nhà nước cũng có ý nghĩa vô cùng quan trọng để tạo thế cân bằng cho sự phát triển và lớn mạnh của hệ thống ngân hàng trong nước.

Yêu cầu đổi mới công nghệ, hiện đại hóa ngân hàng: trong điều kiện tốc độ phát triển và dịch vụ ngân hàng đang diễn ra ngày càng nhanh, áp lực ngày càng mạnh để mở cửa thị trường tài chính, các NHTM Việt Nam đang phải đối mặt với những thách thức từ việc đầu tư đổi mới công nghệ. Với tiềm lực tài chính và năng lực vận hành hạn chế, những thách thức này có thể chuyển thành sức ép.

Về hiện đại hóa ngân hàng, công nghệ thông tin ngân hàng phát triển rất nhanh và các ngân hàng phải tiếp tục nâng cấp để cạnh tranh, việc chuyển đổi dữ liệu từ phần mềm cũ sang phầm mềm mới là trở ngại lớn nhất đối với một số ngân hàng lạc hậu, đặc biệt là các ngân hàng lớn vì khối lượng dữ liệu cần chuyển đổi và cập nhật là rất lớn. Về mặt này, rõ ràng là càng lớn và lạc hậu về công nghệ thì càng bất lợi.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 277 trang tài liệu này.

Cổ phần hóa NHTM nhà nước: Đây là thách thức lớn nhất đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam. Trước khi có thể tiến hành cổ phần hóa, các NHTM nhà nước cần phải tái cơ cấu và giải quyết xong các khoản nợ quá hạn và khi giải quyết xong


Quản trị rủi ro trong kinh doanh của ngân hàng thương mại Việt Nam theo hiệp ước Basel - 20

vấn đề này, từng NHTM nhà nước cần phải có mục tiêu, chiến lược và lộ trình rõ ràng để cổ phần hóa. Những vấn đề như Nhà nước vẫn muốn giữ sở hữu, kiểm soát, sợ mất chủ quyền, việc tham gia của bên nước ngoài là những thách thức của cổ phần hóa các NHTM nhà nước.

Ngoài những thách thức như đã đề cập ở trên, các NHTM Việt Nam còn phải đối mặt với những thách thức khác trong quá trình hội nhập kinh tế. Hội nhập kinh tế quốc tế làm tăng các giao dịch vốn và rủi ro của hệ thống ngân hàng, trong khi cơ chế quản lý và hệ thống thông tin giám sát ngân hàng còn rất sơ khai, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế.

Bên cạnh đó, hội nhập kinh tế cũng dẫn đến hiện tượng chuyển dịch nguồn nhân lực chất lượng cao: các ngân hàng nước ngoài sẵn sàng tuyển dụng một cách hợp pháp nhân lực có tay nghề cao với mức đãi ngộ hấp dẫn mà các ngân hàng Việt Nam không theo kịp.

Trong quá trình hội nhập, hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng chịu tác động mạnh của thị trường tài chính thế giới, nhất là về tỷ giá, lãi suất, dự trữ ngoại tệ, trong khi phải thực hiện đồng thời nhiều nghĩa vụ và cam kết quốc tế. Ngoài ra, các ngân hàng Việt Nam còn gặp một số khó khăn khác như: hệ thống pháp luật trong nước, thể chế thị trường còn chưa đầy đủ, chưa đồng bộ và nhất quán, còn nhiều bất cập so với yêu cầu hội nhập quốc tế về ngân hàng. Vì vậy, có những hạn chế nhất định đối với sự cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng và phát triển thị trường tài chính.

Về tổng thể, xuất phát điểm và trình độ phát triển của ngành ngân hàng Việt Nam còn thấp, cả về công nghệ, trình độ tổ chức, quản lý và chuyên môn nghiệp vụ; tốc độ mở cửa của nền kinh tế còn chậm, khả năng huy động vốn trong nội bộ nền kinh tế thấp, nhất là vốn trung dài hạn và tiết kiệm nội địa, hầu hết các NHTM chưa có chiến lược kinh doanh hợp lý để có thể vươn ra thị trường thế giới.

(ii). Thách thức từ phía hệ thống ngân hàng


a. Về thể chế


Điểm yếu rõ nhất của ngành ngân hàng Việt Nam là thiếu một hệ thống pháp lý có thể bảo vệ lợi ích của các ngân hàng với tư cách là bên cho vay trong trường hợp khách hàng phá sản.

Vấn đề thể chế thứ hai là sự tồn tại của các khoản tín dụng ưu đãi, mang tính trợ cấp, phi thương mại của Ngân hàng phát triển Việt Nam dưới sự bảo trợ của Chính Phủ. Có thể nói, cho vay theo các điều kiện ưu đãi đối với các dự án phục vụ mục đích chính trị hơn là mục đích kinh tế cũng có thể ảnh hưởng xấu đến khả năng cạnh tranh của các NHTM. Mặc dù việc cho vay theo chỉ định của các NHTM nhà nước đã giảm những vẫn được xem là một vấn đề đang tiếp diễn. Điều này có nguy cơ kéo dài vấn đề nợ quá hạn của các NHTM nhà nước, từ đó cản trở quá trình cổ phần hóa các NHTM nhà nước đang được thực hiện.

Thiếu minh bạch trong các báo cáo tài chính của các khách hàng doanh nghiệp cũng là một điểm yếu về mặt thể chế khác của ngành ngân hàng.

b. Về cơ cấu


Các NHTM nhà nước được đối xử khác so với các nhóm ngân hàng khác và cũng chịu một cơ chế quản lý khác. Các quyết định về thay đổi vốn, đầu tư, bổ nhiệm nhân sự cấp cao, lương bổng và kế hoạch kinh doanh của các NHTM nhà nước đều cần có sự phê chuẩn của Chính phủ. Điều này làm chậm quá trình ra quyết định tại các NHTM nhà nước, ảnh hưởng tiêu cực đến tính năng động và độ thích nghi của các ngân hàng này trong môi trường cạnh tranh. Nhưng đổi lại các ngân hàng này được hưởng những lợi ích nhất định như: các NHTM nhà nước được cấp cho cơ sở hạ tầng văn phòng và các hỗ trợ khác, tất cả các khoản này đều không bị tính vào chi phí kinh doanh. Chính phủ cũng không gây sức ép về lợi nhuận đối với các NHTM nhà nước. Một ưu đãi khác nữa chỉ dành cho các NHTM nhà nước là khả năng được miễn trừ một số quy định của pháp luật. Một số dự án tài trợ của Chính phủ có quy mô vốn rất lớn mà không một ngân hàng nào có đủ vốn để cho vay nếu tuân thủ nghiêm ngặt điều kiện là vốn cho một số khách hàng vay không được vượt quá 15% tổng tài sản của ngân hàng. Trong một số trường hợp, Chính phủ phê duyệt miễn quy định này đối với các dự án lớn và các khoản vay từ các NHTM nhà nước. Như vậy, có thể thấy rằng, ở một thị trường, một số ngân hàng


thống trị tới 75 – 80% thị phần mà lại được đối xử và yêu cầu kinh doanh theo cơ chế bán thị trường như vậy, vấn đề về cơ cấu thị trường cần được xem xét.

c. Về tài chính


Các kết quả kiểm toán độc lập chỉ ra rằng các ngân hàng Việt Nam, đặc biệt là các NHTM nhà nước không có tài chính lành mạnh, khả năng sinh lời kém và các chỉ tiêu chi phí cao hơn mức trung bình của khu vực. Với năng lực tài chính có hạn và nhu cầu rất lớn về vốn cho nền kinh tế, các ngân hàng chỉ có thể đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn mà chưa đáp ứng nhu cầu vốn trung và dài hạn. Trong khi đó, thị trường chứng khoán còn chưa phát triển đầy đủ, các doanh nghiệp chưa đủ minh bạch tài chính để huy động vốn theo kênh này, do vậy, hơn 80% nguồn vốn của doanh nghiệp là vay ngân hàng. Hiện tại, có khoảng 25% vốn ngắn hạn của ngân hàng được dành cho vay dài hạn và điều này đã làm tăng rủi ro hệ thống của ngành ngân hàng. Điểm yếu tài chính lớn nhất của hệ thống ngân hàng Việt Nam là vấn đề nợ quá hạn của các NHTM nhà nước.

d. Về kỹ thuật


Những điểm yếu kỹ thuật được thể hiện ở kỹ năng quản lý, phân tích tín dụng, quản trị rủi ro còn kém, công nghệ lạc hậu, thiếu việc chuẩn hóa chất lượng dịch vụ trong toàn mạng lưới và thiếu cơ cấu quản trị hiện đại ở các ngân hàng Việt Nam. Do năng lực tài chính hạn chế, các ngân hàng chủ yếu cung cấp và hưởng lãi từ các dịch vụ tín dụng cơ bản và truyền thống. Hầu hết các sản phẩm mà ngân hàng Việt Nam cung cấp đều sơ đẳng và cơ bản.

Việc thiếu một cơ cấu quản trị hiện đại và quy trình phục vụ khách hàng cũng ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của ngân hàng. Các khoản vay có thể phải qua nhiều giai đoạn, được xử lý bởi nhiều nhân viên ở nhiều bộ phận trong ngân hàng. Ở nhiều ngân hàng, khách hàng phải chờ đợi lâu, đi nhiều quầy để thực hiện một giao dịch. Điều này trở nên bất tiện đối với các khách hàng ở một xã hội hiện đại với những yêu cầu dịch vụ ngày càng phức tạp hơn.

e. Về năng lực nhân sự


Một số giám đốc ngân hàng đã được đào tạo chính quy về quản lý ngân hàng, còn lại phần lớn là tự học thông qua công việc thực tế. Năng lực nhân sự có hạn có thể cản trở nghiêm trọng khả năng của ngân hàng trong việc xử lý khối lượng giao dịch ngày càng lớn và rủi ro ngày càng nhiều.

Tóm lại, các NHTM Việt Nam có rất ít kinh nhiệm để đối phó với tình hình mới, môi trường kinh tế mới. Từ những cơ hội và thách thức đối với các NHTM Việt Nam có thể cho rằng: không thể áp dụng ngay toàn bộ hệ thống Basel. Cần nghiên cứu kỹ lưỡng và áp dụng dần dần các nguyên tắc cơ bản của Basel với các bước đi thận trọng và đồng bộ.

3.2. Giải pháp tăng cường công tác quản trị rủi ro trong kinh doanh của các NHTM Việt Nam theo Hiệp ước Basel

3.2.1. Nhóm giải pháp đối với Chính phủ và NHNN


Mặc dù Quỹ tiền tệ thế giới IMF và Ngân hàng thế giới WB đều đã công bố rộng rãi mong muốn hỗ trợ các quốc gia chuẩn bị cho quyết định có nên, bao giờ và bằng cách nào để triển khai Basel II, song cả hai tổ chức tài chính lớn nhất thế giới này đều nhấn mạnh rằng ở bình diện quốc gia, Basel I vẫn là lựa chọn khả thi trong tương lai gần, và rằng Basel II phải được xây dựng dựa trên một nền tảng vững chắc các tiêu chuẩn về kế toán và quản trị, các thực hành về định giá và phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro khả thi, khung pháp lý và các nguồn lực giám sát đầy đủ. Khi chưa hội tụ đầy đủ các nhân tố trên, các quốc gia muốn áp dụng Hiệp ước Basel II cần cải thiện hạ tầng tài chính của mình như là một phần của lộ trình thực hiện Basel II. Theo định hướng này, những công việc mà Chính phủ và NHNN có thể thực hiện ở những giai đoạn đầu trong việc hình thành một khung giám sát rủi ro bao gồm:

Nâng cấp hạ tầng tài chính: Hệ thống pháp lý và các chuẩn mực về kế toán và kiểm toán phải được nâng cấp để thực hiện Basel II. Hiện tại, hệ thống luật liên quan đến hoạt động của các tổ chức tín dụng của Việt Nam chưa cập nhật so với các quy định mới trong Basel. Hệ thống kế toán ngân hàng cũng cần phải được cải cách theo các chuẩn mực kế toán quốc tế, đặc biệt là các vấn đề phân loại nợ theo chất lượng, mức độ rủi ro, trích lập dự phòng rủi ro, hạch toán thu nhập, chi phí. Bên


cạnh đó, NHNN cần xây dựng các giải pháp chính sách để hoàn thiện phương pháp kiểm soát và kiểm toán nội bộ trong các ngân hàng và tiến tới chuẩn mực quốc tế. NHNN cần ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện các chuẩn mực của Basel trên cơ sở lựa chọn chuẩn mực thích hợp, bổ sung định hướng thực hiện Hiệp ước Basel trong chính sách phát triển hệ thống ngân hàng 2010 – 2020, trong đó nêu cụ thể và chi tiết lộ trình áp dụng, các điều kiện áp dụng. Đối với các tổ chức xếp hạng tín nhiệm độc lập, NHNN cần tư vấn cho Chính phủ và Bộ Tài chính ra văn bản hướng dẫn cụ thể trên cơ sở quy định trong phương pháp tiếp cận tiêu chuẩn của Hiệp ước Basel II. NHNN cũng cần căn cứ vào năng lực tài chính và phạm vi hoạt động của các ngân hàng để phân nhóm các ngân hàng lành mạnh, yêu cầu các ngân hàng này tuân thủ các chuẩn mực quốc tế theo một lộ trình nhất định, từ đó, xây dựng một đến hai ngân hàng đạt tiêu chuẩn khu vực và thế giới trong giai đoạn từ 2012 – 2015.

Nâng cao chất lượng trung tâm thông tin tín dụng: NHNN cần nâng cao hơn nữa chất lượng thông tin tín dụng tại Trung tâm thông tin tín dụng nhằm đáp ứng yêu cầu thông tin cập nhật và chính xác về khách hàng; cần có những biện pháp tuyên truyền thích hợp để các NHTM nhận thấy rõ quyền lợi và nghĩa vụ trong việc cung cấp và sử dụng thông tin tín dụng. Định kỳ NHNN cũng hướng dẫn các NHTM bổ sung kịp thời các tiêu chí xếp hạng dựa trên chuẩn mực Basel II; giám sát chặt chẽ không để xảy ra tình trạng thông đồng giữa tổ chức xếp hạng với tổ chức được xếp hạng.

Đào tạo và phát triển một văn hóa giám sát mới: Basel II buộc các cơ quan giám sát ngân hàng phải học các kỹ thuật đo lường và quản lý rủi ro mới nhưng quan trọng hơn, sẽ cần phải thay đổi văn hóa giám sát từ việc kiểm tra tuân thủ sang đánh giá rủi ro. NHNN với vai trò là một cơ quan giám sát cần tích cực hướng dẫn, đôn đốc các NHTM sớm ban hành quy định về tiêu chuẩn, yêu cầu vốn tối thiểu đối với hệ thống quản trị rủi ro áp dụng tại ngân hàng, bao gồm hệ thống kiểm soát, kiểm toán nội bộ, hệ thống quản lý tài sản có, tài sản nợ, quản trị rủi ro tín dụng, rủi ro tác nghiệp và rủi ro thị trường. Những yêu cầu tối thiểu mà các ngân hàng cần đạt được chính là điều kiện tiên quyết giúp cơ quan giám sát nhà nước chấp thuận việc sử dụng hệ thống quản trị rủi ro tương ứng của ngân hàng.


NHNN cần đổi mới nội dung, phương pháp, quy trình thanh tra, giám sát đi đôi với hoàn thiện các quy định an toàn, các biện pháp thận trọng trong hoạt động ngân hàng; các quy định, chính sách quản lý các loại hình TCTD và hoạt động ngân hàng phù hợp với sự phát triển của công nghệ thông tin, công nghệ ngân hàng và trên cơ sở áp dụng các nguyên tắc cơ bản về giám sát ngân hàng có hiệu quả của ủy ban giám sát ngân hàng Basel và các chuẩn mực quốc tế về giám sát ngân hàng (Hiệp ước Basel năm 1988- Basel I), từng bước tiến tới thực hiện các nguyên tắc, chuẩn mực cơ bản theo Hiệp ước vốn mới (Basel II, Basel III) sau năm 2012.

NHNN phải thực sự là cơ quan cấp phép đối với mọi hoạt động ngân hàng và chấp hành chính sách, pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng trên lãnh thổ Việt Nam.

3.2.2. Nhóm giải pháp đối với NHTM để đáp ứng các nguyên tắc về vốn tối thiểu


3.2.2.1. Tiếp tục phát hành cổ phiếu tăng vốn tự có


Giải pháp bán cổ phiểu để tăng vốn tự có đã được các ngân hàng TMCP áp dụng mạnh mẽ trong thời gian vừa qua và đã đạt được kết quả rất đáng khích lệ. Sở dĩ giải pháp này thu được kết quả tốt trong những năm qua vì những lý do sau:

(1) Kinh tế Việt Nam tăng trưởng với tốc độ cao liên tục trong nhiều năm qua đã tạo cơ sở hình thành một số lượng các tổ chức kinh tế cũng như một số bộ phận dân cư giàu có, có khối lượng tiền dư thừa lớn muốn mở rộng đầu tư sang lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng;

(2) Dưới sự kiểm soát chặt chẽ của NHTM Nhà Nước và bài học kinh nghiệm từ các ngân hàng TMCP bị đổ vỡ trước năm 2000, các ngân hàng TMCP hiện nay đã chú trọng nâng cao năng lực cạnh tranh trên mọi mặt, thực hiện kiểm soát chặt chẽ rủi ro và tăng nhanh đáng kể hiệu quả kinh doanh, góp phần quyết định tăng cao uy tín hoạt động trên thị trường, thu hút các nhà đầu tư;

(3) So sánh với các ngành nghề kinh doanh khác thì lĩnh vực tài chính tiền tệ ngân hàng vẫn là lĩnh vực có tỷ suất lợi nhuận cao và có tính hấp dẫn;

Xem tất cả 277 trang.

Ngày đăng: 03/05/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí