Quy Định Chức Năng, Nhiệm Vụ Và Vai Trò Quản Trị Rủi Ro Các Cấp Tại Nhtm Việt Nam


hàng, tranh thủ sự hỗ trợ kỹ thuật, đẩy mạnh hợp tác quốc tế về thanh tra, giám sát ngân hàng và an toàn hệ thống tài chính.

Đối với cán bộ làm công tác thông tin, thống kê: đào tạo, nâng cao trình độ nghiệp vụ, năng lực chuyên môn cho các cán bộ làm công tác thông tin thống kê dưới hình thức cử cán bộ sang thực tập tại một số quốc gia khác. Có kế hoạch lâu dài đào tạo cán bộ đủ kiến thức vận hành, khai thác và làm chủ kỹ thuật đối với các hệ thống kỹ thuật mới hiệu quả nhất.

Về mặt công nghệ có thể đầu tư mua sắm được những hệ thống chương trình quản lý rủi ro hiện đại nhất, tính năng cao nhất. Tuy nhiên con người để sử dụng hệ thống đó có hiệu quả thì cần phải có một thời gian dài, đòi hỏi ngân hàng cần xây dựng các chiến lược đào tạo nhân lực trong dài hạn.

Cần hợp tác tổ chức các khoá đào tạo trong và ngoài nước với sự tham gia của các tổ chức chuyên về đào tạo quản trị rủi ro trong hoạt động của NHTM, giới thiệu những tiến bộ mới nhất về công nghệ, kỹ thuật cũng như những phát triển mới nhất về lý luận trong quản trị rủi ro để thực hiện các khóa đào tạo chuyên sâu về ngân hàng thương mại. Trong nước, những cơ sở đào tạo có uy tín như Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Đại học Ngoại thương, Đại học Quốc gia, Học viện Ngân hàng, Học viện Tài chính,… là những địa điểm đào tạo lý tưởng cho nguồn nhân lực quản trị rủi ro có chất lượng.

Bên cạnh đó, các NHTM Việt Nam cần tham gia tích cực vào các diễn đàn dành cho NHTM như Viện quản trị ngân hàng (Bank Administration Institute – www.bai.org), Hiệp hội chuyên viên quản lý Tài sản có/Tài sản nợ (www.almprofessional.com), công ty thương mại giải pháp ngân hàng (www.banktech.com) ...và các tổ chức, đơn vị khác để thường xuyên cập nhật và trao đổi về những kiến thức, kinh nghiệm mới.

3.2.5.2. Quy định chức năng, nhiệm vụ và vai trò quản trị rủi ro các cấp tại NHTM Việt Nam

(a) Trách nhiệm của HĐQT


- Xác định mức độ chấp nhận rủi ro (risk appetite) của ngân hàng. Mức độ chấp nhận rủi ro này phải được xác định trên cơ sở các quyết định về định hướng chiến lược tổng thể của ngân hàng. Mức độ chấp nhận rủi ro là hàm số của những nguồn lực sẵn có của bản thân NHTM.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 277 trang tài liệu này.

- Xác định ở phạm vi rộng các lĩnh vực kinh doanh mà ngân hàng theo đuổi. Ví dụ: bán buôn hay bán lẻ, thương mại hay cá nhân, dịch vụ truyền thống (tiền gửi và cho vay) hay các dịch vụ mới liên quan đến kinh doanh, môi giới, tư vấn...

- Xác định các trách nhiệm tổng thể của cấp quản lý điều hành và đảm bảo rằng các cấp điều hành cao cấp có cán bộ với nhiều kinh nghiệm trong các lĩnh vực khác nhau.

Quản trị rủi ro trong kinh doanh của ngân hàng thương mại Việt Nam theo hiệp ước Basel - 23

- Xây dựng quy chế hoạt động của Hội đồng quản trị và các hội đồng khác trực thuộc HĐQT (ví dụ: Uỷ ban quản lý TSC/TSN, Hội đồng quản lý rủi ro, Hội đồng công nghệ thông tin...)

- Ban hành cơ chế báo cáo từ cấp điều hành đến cấp chi tiết (nếu cần) về toàn bộ hoạt động kinh doanh của ngân hàng cũng như báo cáo phân tích các nội dung chủ yếu trong công tác quản trị rủi ro.

(b) Trách nhiệm của Ban điều hành


Cấp điều hành của một NHTM có trách nhiệm thực hiện các mong muốn và chỉ đạo của HĐQT về phương hướng kinh doanh, mức độ chấp nhận rủi ro, cơ cấu tổ chức trên phạm vi rộng và cách thức tiếp cận trong quá tình ra quyết định.

Cấp điều hành cần thiết lập cơ cấu tổ chức rõ ràng và phù hợp, với các tránh nhiệm hàng ngày được xác định rõ và phổ biến trong toàn bộ tổ chức. Cần phải có một sơ đồ cơ cấu tổ chức công khai.

Cấp quản lý cũng cần phải đảm bảo rằng cán bộ ở mọi cấp đều được trang bị những kỹ năng, kiến thức cần thiết để thực hiện kinh doanh có hiệu quả.

(c) Bộ phận bảo đảm tuân thủ (compliance management)


Chức năng bảo đảm tuân thủ cần được tách biệt khỏi tất cả các bộ phận hoạt động kinh doanh khác trong một ngân hàng. Nhiệm vụ của đơn vị này là đảm bảo


rằng tất cả các luật, quy định và chính sách được tuân thủ. Chức năng này cần bao gồm cả các quy định trong và ngoài ngân hàng.

Chức năng bảo đảm tuân thủ có thể tập trung vào một bộ phận, ví dụ: phòng Kiểm tra kiểm soát nội bộ của ngân hàng. Tuy nhiên, thực tiễn tốt nhất cho thấy nên duy trì chức năng này ở nhiều phòng, bộ phận, đơn vị khác nhau trong ngân hàng, tuỳ thuộc vào loại rủi ro cần quản lý.

(d) Kiểm toán nội bộ


Kiểm toán nội bộ thực hiện một vai trò khác nhưng có liên quan đến chức năng bảo đảm tuân thủ. Kiểm toán nội bộ cũng cần phải tách biệt khỉ tất cả các phòng, ban khác, kể cả các phòng thực hiện đảm bảo tuân thủ. Các nội dung trọng tâm của bộ phận Kiểm toán nội bộ gồm:

- Cơ cấu rủi ro mong muốn của ngân hàng có được tuân thủ bởi các bộ phận thực hiện kinh doanh không; Việc tách bạch các trách nhiệm có phù hợp và phát huy tốt hay không; Nhân viên và chất lượng các hệ thống quản trị rủi ro có đáp ứng yêu cầu công việc hay không;

- Cơ cấu quản lý rủi ro có vận hành hiệu quả hay chỉ mang tính hình thức; Có phát hiện đầy đủ và cảnh báo kịp thời các rủi ro hay không; Cơ chế báo cáo có phù hợp không;

- Liệu cấu trúc các hạn mức khác nhau mà ngân hàng áp dụng có phù hợp không; có đang được tuân thủ không; các trường hợp vượt hạn mức có được báo cáo và xử lý thoả đáng không;

- Việc báo cáo các trạng thái có kịp thời và đầy đủ không;

- Bộ phận quản lý tín dụng có đang quản lý danh mục cho vay tuân theo các thoả thuận vay và chính sách của ngân hàng hay không;

- Các rủi ro mới phát sinh trong danh mục đầu tư, cho vay có được xác định và quản lý đầy đủ hay không.

3.2.5.3. Đổi mới công nghệ thông tin ngân hàng


NHTM phải xây dựng một hệ thống thông tin với kỹ thuật phân tích có khả năng đo lường được rủi ro trong các hoạt động nghiệp vụ, đồng thời phải kết hợp được các dữ liệu từ những giao dịch đơn lẻ thành một hệ thống cấu trúc có thể ước tính được rủi ro tổng thể của đơn vị và thu thập dữ liệu về tổng rủi ro của nhiều ngân hàng theo thời gian. Như vậy, để có thể đo lường tổng thể các loại rủi ro, đặc biệt là rủi ro thị trường thì dữ liệu về rủi ro phải được trao đổi chéo giữa nhiều ngân hàng với nhau.

Việc xây dựng một hệ thống thông tin phục vụ việc quản trị rủi ro phải đáp ứng một số yêu cầu cơ bản sau:

Thứ nhất, hệ thống này phải hỗ trợ được việc tính toán giá trị rủi ro VAR.


Thứ hai, thông tin lưu trữ giúp thực hiện phân tích chuỗi sự kiện theo trình tự thời gian, từ những sự kiện đơn lẻ.

Thứ ba, có khả năng đo lường được giá trị hoạt động hiện tại và tương lai với các đối tượng khác nhau.

Thứ tư, đáp ứng được cả ba yêu cầu trên với nhiều cấp độ, quy mô hoạt động ngân hàng khác nhau, nhiều nhóm rủi ro khác nhau, nhiều loại sản phẩm khác nhau và nhiều đối tượng khác nhau.

Để đáp ứng các yêu cầu trên, việc đầu tư công nghệ và thiết bị cần lựa chọn kỹ thuật và công nghệ ngân hàng hiện đại; xây dựng hệ thống phần mềm ứng dụng hợp lý, phù hợp với điều kiện Việt Nam để tin học hóa các nghiệp vụ một cách đồng bộ, từng bước tự động hóa theo chuẩn mực quốc tế.

Bên cạnh đó, các ngân hàng cần có kế hoạch đào tạo lại đội ngũ cán bộ chuyên tin và cán bộ nghiệp vụ ngân hàng đủ trình độ để quản lý và vận hành hệ thống công nghệ hiện đại; tăng cường đầu tư cho an ninh an toàn hệ thống công nghệ thông tin ngân hàng bằng các giải pháp kỹ thuật; khẩn trương xây dựng các trung tâm dự phòng thảm họa, không để xảy ra rủi ro bất kỳ một sự cố bất khả kháng nào đối với mảng nghiệp vụ ngân hàng.

Các NHTM cần tiếp tục nâng cấp mạng điện và hạ tầng công nghệ thông tin với các giải pháp kỹ thuật và phương thức truyền thông phù hợp với trình độ phát


triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam và các chuẩn mực thông lệ quốc tế; hoàn thiện và phát triển các phương pháp quản lý nghiệp vụ ngân hàng cơ bản, các quy trình, thủ tục quản lý và tác nghiệp theo thông lệ, chuẩn mực quốc tế, đồng thời theo hướng hiện đại, tự động và được tích hợp trong hệ thống quản trị ngân hàng hoàn chỉnh và tập trung.

Các NHTM cũng cần tăng cường hệ thống an toàn, bảo mật thông tin, dữ liệu và an ninh mạng; triển khai các đề án cải tạo, nâng cấp các giải pháp an ninh mạng, bảo mật dữ liệu, bảo đảm an toàn tài sản và hoạt động của ngân hàng; xây dựng hệ thống bảo mật thông tin, dữ liệu và an toàn mạng, nghiên cứu và xây dựng đường truyền dữ liệu, liên kết với mạng thông tin quốc gia để tạo thế chủ động cho ngân hàng.

3.3. Kiến nghị các điều kiện thực hiện giải pháp tăng cường công tác quản trị rủi ro trong kinh doanh của các NHTM theo Hiệp ước Basel

Basel I và Basel II chủ yếu áp dụng cho các ngân hàng hoạt động quốc tế. Trên thực tế rất nhiều các ngân hàng có mức độ hoạt động quốc tế hạn chế cũng đã chủ động áp dụng các chuẩn mực về vốn để nâng cao mức độ an toàn và khả năng cạnh tranh. Trên bình diện quốc tế, các hệ thống ngân hàng có xu hướng áp dụng các chuẩn mực vốn của Basel để tiện cho việc so sánh, đối chiếu về mức độ lành mạnh. Để áp dụng Basel có hiệu quả cần bảo đảm các điều kiện dưới đây:

3.3.1. Về phía bản thân các ngân hàng thương mại


Toàn bộ rủi ro của từng ngân hàng phải được đánh giá, theo dõi một cách chặt chẽ và các nguồn lực giám sát phải được phân bổ hợp lý.

Các ngân hàng cần đạt được trình độ quản trị rủi ro nhất định và phát triển đầu tư, nâng cấp hạ tầng công nghệ, đặc biệt công nghệ thông tin thích hợp, đạt chuẩn quốc tế, để ứng dụng các thông lệ tốt về quản trị doanh nghiệp và các nguyên tắc thiết lập và vận hành các hệ thống kiểm soát nội bộ và quản trị rủi ro (tín dụng, thị trường, thanh khoản và tác nghiệp).

Các ngân hàng phải thiết lập được hệ thống quản trị rủi ro nội bộ chuyên nghiệp phù hợp với thông lệ tốt và đáp ứng các yêu cầu tối thiểu của cơ quan giám


sát ngân hàng để phát hiện, đo lường, quản lý và giám sát thoả đáng các loại rủi ro trong hoạt động của ngân hàng.

Các ngân hàng phải tuyển dụng và đào tạo được nguồn nhân lực đủ về số lượng và chất lượng để vận hành hệ thống quản trị rủi ro, đặc biệt đối với các hệ thống quản lý rủi ro thị trường, tín dụng và rủi ro tác nghiệp dưới dạng mô hình hoá rủi ro.

3.3.2. Về phía Ngân hàng nhà nước


Mục tiêu hoạt động của cơ quan giám sát ngân hàng thuộc Ngân hàng nhà nước cần phải được xác định rõ ràng, chủ yếu nhằm duy trì sự ổn định hệ thống tài chính và lòng tin của công chúng vào hệ thống ngân hàng. Để thực thi nhiệm vụ của cơ quan giám sát một cách hữu hiệu, cơ quan giám sát phải có sự độc lập về hoạt động, phương tiện và quyền lực thu thập thông tin từ xa, thông tin tại chỗ và có thẩm quyền thực hiện các quyết định của mình.

Ngân hàng nhà nước phải có thẩm quyền quy định và sử dụng các quy chế an toàn (định tính và định lượng) để kiểm soát các rủi ro trong hoạt động ngân hàng. Các quy định an toàn này không phải thay thế cho các quyết định quản lý của ngân hàng mà đúng hơn là các chuẩn mực thận trọng tối thiểu để bảo đảm các ngân hàng tiến hành các hoạt động một cách hợp lý.

Cơ quan giám sát ngân hàng cần phải có sự phối hợp tốt với các cơ quan giám sát tài chính khác ở trong nước và nước ngoài để giám sát các hoạt động tài chính phi ngân hàng và các hoạt động ngân hàng quốc tế do các ngân hàng tiến hành.

Điều kiện tiên quyết đối với một hệ thống giám sát ngân hàng hữu hiệu là:


Khung thể chế và pháp luật về giám sát ngân hàng phù hợp: Mục tiêu cơ quan giám sát được xác định rõ ràng; cơ quan giám sát có đủ nguồn lực; cơ quan giám sát có mức độ độc lập thoả đáng về tổ chức và hoạt động;

Chính sách kinh tế vĩ mô lành mạnh và bền vững để không gây ảnh hưởng bất lợi hoặc gia tăng rủi ro cho hoạt động ngân hàng;



Hạ tầng công cộng phù hợp: hệ thống kế toán đáng tin cậy, kiểm toán thích hợp, hệ thống thông tin quản lý hữu hiệu đáp ứng yêu cầu quản trị rủi ro của các ngân hàng và hoạt động giám sát của cơ quan giám sát ngân hàng;

Kỷ luật thị trường có hiệu quả: xác định rõ ràng trách nhiệm của cơ quan giám sát và ngân hàng. Bảo đảm tính minh bạch trong hoạt động ngân hàng và cạnh tranh lành mạnh trong hoạt động ngân hàng;

Thủ tục giải quyết các vấn đề ở các ngân hàng rõ ràng: cần phải có hệ thống các biện pháp can thiệp đối với các ngân hàng có vấn đề một cách hữu hiệu, kịp thời để bảo đảm an toàn hoạt động của mỗi ngân hàng và toàn bộ hệ thống ngân hàng, đồng thời bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng. Các biện pháp xử lý các vấn đề ở các ngân hàng phải tránh tạo ra tâm lý ỷ lại, bao cấp và tăng rủi ro đạo đức của các ngân hàng;

Có đủ các cơ chế tạo ra mức bảo vệ hệ thống một cách thích hợp hay hệ thống mạng lưới an toàn công cộng.

Tóm lại: điều kiện và mức độ sẵn sàng áp dụng Hiệp ước Basel phụ thuộc vào một số yếu tố như: Hiện trạng của hệ thống quản lý rủi ro của ngân hàng; Chi phí/lợi ích dự tính; và Mức độ áp lực của ngân hàng trung ương. Nếu nhìn từ góc độ của một ngân hàng trung ương, những yếu tố sẽ được cân nhắc khi chuẩn bị thực hiện Hiệp ước mới bao gồm: Các ưu tiên quốc gia; Mức độ sẵn sàng về khuôn khổ pháp lý và quản lý; Các chuẩn mực kế toán; Nguồn nhân lực và đội ngũ chuyên gia; Kỷ luật thị trường; Sự có mặt và mức độ đáng tin cậy của các công ty xếp hạng tín dụng.


KẾT LUẬN


Hiệp ước Basel với những nội dung chuẩn hóa về quản trị rủi ro tín dụng, thị trường và tác nghiệp được xem là bước ngoặt lớn trong tiến trình cải cách công tác quản trị rủi ro toàn cầu. Chính nhờ những nội dung “cách mạng” này mà thay vì chỉ thực hiện ở những ngân hàng hoạt động đa quốc gia của các nước G-10 như mục tiêu ban đầu, Hiệp ước Basel nói chung và Basel II nói riêng đã trở thành chuẩn mực toàn cầu về quản trị rủi ro.

Theo thông tin điều tra của Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng, đã có gần 100 ngân hàng quốc gia của các nước trên thế giới ngoài G-10 tuyên bố về ý định triển khai Hiệp ước Basel trong khuôn khổ hoạt động của hệ thống NHTM nội địa. Dù mức độ “nghiêm túc” của các tuyên bố nói trên tới đâu, đã được thể hiện thành những hành động cụ thể hay mới chỉ dừng lại ở tính văn bản, thì không thể phủ nhận là các nhà quản lý ngân hàng vĩ mô của các quốc gia đang phát triển đều chịu áp lực lớn về việc phải dịch chuyển theo định hướng của Basel II, Basel III.

Thực tế cho thấy, cũng như hệ thống ngân hàng các nước khác, mục tiêu của hệ thống ngân hàng Việt Nam là an toàn, hiệu quả và bền vững. Hơn nữa, so với thông lệ quốc tế, mức độ rủi ro trong hoạt động tín dụng tại các NHTM Việt Nam, đặc biệt tại các NHTM Nhà nước còn khá cao và khó lường trước các hậu quả xảy ra. Chính vì vậy, việc phân tích và áp dụng các chuẩn mực Basel là hết sức cần thiết nhằm đảm bảo sự an toàn không những trong hoạt động của các NHTM Việt Nam mà còn là sự an toàn của toàn bộ nền kinh tế trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.

Với những chuẩn mực khắt khe, Basel nói chung và Basel II nói riêng tạo ra những thách thức thực sự trong việc triển khai, ngay cả đối với các ngân hàng hiện đại trên thế giới. Vì vậy, không đáng ngạc nhiên khi việc áp dụng Hiệp ước Basel gặp những rào cản lớn trong hệ thống ngân hàng của các quốc gia đang phát triển, bao gồm cả Việt Nam, đòi hỏi sự phối hợp, đồng thuận của rất nhiều ban ngành liên quan.

Bằng cách kết hợp các phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh,… dựa trên những chuẩn mực cơ bản của ủy ban giám sát ngân hàng –BIS và

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 03/05/2023