tâm, nhất là trong thời đại nền kinh tế tri thức bùng nổ như hiện nay. Một chủ doanh nghiệp thực sự cần có năng lực, có tầm nhìn xa trông rộng để có thể chèo lái con thuyền doanh nghiệp qua thời kỳ khó khăn, đồng thời hướng doanh nghiệp vào những lĩnh vực kinh doanh tiềm năng. Tất cả những khả năng đó không thể bỗng dưng có được mà phải trải qua những tháng năm học hỏi, nghiên cứu và đặc biệt phải được đào tạo một cách chính thống. Tuy vậy, yếu điểm hiện nay về trình độ học vấn cũng như khả năng quản lý của các doanh nghiệp Việt Nam không thể một sớm một chiều khắc phục ngay được. Kinh nghiệm ở Nhật Bản cho thấy, để có được đội ngũ những chủ tập đoàn có học vấn và thực sự có năng lực, Chính phủ Nhật Bản đã kiến thiết thành công một hệ thống giáo dục có thể là bậc nhất thế giới. Những đứa trẻ ngay từ ngày đầu cắp sách đến trường đã được xác định rằng muốn tiếp tục sinh tồn thì không có cách nào khác là phải học tập và vượt qua các kỳ thử thách. Dẫu rằng còn có nhiều quan điểm không đánh giá cao kiểu cách giáo dục tại Nhật Bản, nhưng bất kì ai cũng phải thừa nhận rằng, nhờ vào nó mà Nhật Bản có thể làm được điều kỳ diệu mà không ai sống ở những năm 40, 50 của thế kỷ 20 có thể tưởng tượng nổi. Và chính hệ thống giáo dục đó đã không những đáp ứng mà còn vượt quá nhu cầu của nền kinh tế về một lực lượng lao động có trình độ cao.
Do đó, Việt Nam cần phải xây dựng chiến lược đào tạo các nhà quản lý, từng bước hình thành các nhà quản lý giỏi, chuyên nghiệp, đáp ứng yêu cầu quản lý và điều hành công ty lớn trong nền kinh tế thị trường. Cần có chương trình, kế hoạch cụ thể đào tạo lại đội ngũ giám đốc và thành viên hội đồng quản trị như hiện nay. Các tập đoàn kinh tế cần liên kết với các trường đại học trong và ngoài nước các cơ sở đào tạo, chủ động xây dựng kế hoạch đào tạo ngắn hạn, trung hạn, dài hạn cho nhân viên các cấp từ cao đến thấp. Đồng thời cần có kế hoạch cụ thể đào tạo đội ngũ cán bộ kế cận. Điều quan trọng là phải thường xuyên phân loại, đánh giá đội ngũ cán bộ quản lý trong các tập đoàn, trên cơ sở đó tiến hành xây dựng quy trình đào tạo, bố trí cán bộ chủ động. Thực hiện chế độ phân cấp cán bộ quản lý, bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật đối với lãnh đạo tập đoàn kinh tế. Tất cả các công ty trong tập đoàn cần được quản chế bằng một chế độ nhân sự thích hợp về trình độ giáo dục cũng như khả năng về chuyên môn. Đây cũng chính là một điều
kiện pháp lý khi thành lập và trong tiến trình hoạt động của tập đoàn, cũng như yêu cầu tri thức hóa, chuyên môn hóa tầng lớp lãnh đạo của các tập đoàn.
Các giám đốc điều hành công ty, các giám đốc về tài chính, marketing, sản xuất, nhân lực và kế toán công ty đều phải có bằng về quản trị kinh doanh, phải qua các khoá học về đạo đức kinh tế và có kiến thức kinh tế sâu rộng. Có như vậy mới đảm bảo điều kiện về chuyên môn, chất lượng đồng thời tạo ra một văn hoá làm việc mà đội ngũ quản lý vừa có khả năng, vừa có đạo đức. Điều này sẽ kiến tạo nên văn minh kinh doanh mới với tầm mức cao cho các tổ chức tập đoàn kinh tế. Tuy nhiên trong điều kiện hiện nay, song song với việc thuê các Tổng giám đốc nước ngoài là chiến lược thuê và đào tạo Giám đốc điều hành-CEO, Giám đốc tài chính-CFO đáp ứng các yêu cầu phát triển tập đoàn trong thời gian tới. Trước mắt, có thể thuê các giám đốc nước ngoài để khắc phục những lỗ hổng trong quản lý nhưng về lâu về dài cần đào tạo chính những nguồn lực trong nước bởi không ai hiểu tâm lý, tính cách thói quen tiêu dùng, văn hóa người Việt bằng chính nguồn nhân lực Việt Nam. Ngoài ra cần có cơ chế cạnh tranh bình đẳng trong tuyển dụng doanh nhân nhằm một mặt tạo cơ hội cho những nhà quản lý chuyên nghiệp, có năng lực, mặt khác tạo áp lực với các nhà quản trị hiện tại. Việc lựa chọn cán bộ quản lý cần bắt đầu từ cách tiếp cận về mục tiêu hình thành các tập đoàn Nhà nước, với tư cách chủ đầu tư, xác định mục tiêu chủ yếu của tập đoàn kinh tế là tìm kiếm lợi nhuận và nâng tầm thương hiệu.
Thêm nữa, phải thay đổi cách thức trả lương hiện nay cả với các đội ngũ chuyên gia, các cán bộ quản lý có năng lực và với cả toàn thể người lao động theo hướng trả lương trên kết quả và hiệu quả công việc. Đồng thời cần thực hiện những biện pháp ưu đãi vật chất, các chế độ xã hội, các khoản thưởng nhằm thu hút nhân tài, tránh để tình trạng chảy máu chất xám ra nước ngoài và xu hướng đổ xô làm việc tại các tập đoàn đa quốc gia trên thế giới đặt tại Việt Nam đặc biệt ở lĩnh vực ngân hàng, tài chính như thời gian vừa qua.
3. Một số kiến nghị đối với Chính phủ và Nhà nước
3.1 Ổn định môi trường vĩ mô
Có thể bạn quan tâm!
- Trình Độ Lao Động Của Tập Đoàn Hòa Phát Năm 2007-2008
- Thứ Hạng Một Số Tiêu Chí Môi Trường Kinh Doanh Của Việt Nam Năm 2008
- Mở Rộng Đầu Tư Nhưng Cần Chú Ý Giới Hạn Đa Dạng Hóa Ngành Nghề
- Sự phát triển của mô hình tập đoàn ở Việt Nam - Thực trạng và hướng phát triển - 13
- Sự phát triển của mô hình tập đoàn ở Việt Nam - Thực trạng và hướng phát triển - 14
Xem toàn bộ 114 trang tài liệu này.
Muốn hình thành và phát triển các tập đoàn kinh tế một cách hiệu quả không chỉ cần những chiến lược, kế hoạch và quản trị hiện đại từ bản thân các tập đoàn mà còn phải có sự hỗ trợ từ một môi trường kinh tế, pháp luật, chính trị lành mạnh. Một môi trường kinh tế vĩ mô ổn định sẽ giúp cho sự phát triển của các tập đoàn thuận lợi hơn. Do vậy, trước hết Nhà nước cần ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, bao gồm việc ổn định tiền tệ thông qua các chính sách lãi suất, tỷ giá hối đoái, chính sách giá cả…hướng vào tăng trưởng và phát triển kinh tế. Những động thái mới đây của Chính phủ như cắt giảm lãi suất cơ bản xuống 7%, nới rộng biên độ tỷ giá từ 3% lên 5%...cũng đã cho thấy sự cố gắng điều tiết thị trường tài chính, tiền tệ của Việt Nam tuy nhiên vẫn chưa thể hiện được hiệu quả. Nhà nước cũng cần sử dụng linh hoạt, phối hợp đồng bộ các chính sách tài khóa, tiền tệ và các công cụ, chính sách khác như thu chi ngân sách, cân bằng cán cân thương mại, đảm bảo cân đối giữa tích lũy và đầu tư…nhằm vừa tạo lập sự ổn định, vừa đảm bảo an toàn nguồn vốn đầu tư, cam kết đảm bảo hộ quyền sở hữu và các loại tài sản khác của các nhà đầu tư bằng các biện pháp cụ thể như tập trung giải quyết thất nghiệp, tham nhũng, giảm nghèo, xóa bỏ tệ nạn xã hội, thực hiện các chính sách an sinh xã hội, chăm sóc y tế, phát triển giáo dục, ổn định văn hóa…Môi trường chính trị xã hội ổn định một mặt là điều kiện để các tập đoàn thụ hưởng trực tiếp những thành quả của nó như thu hút được nguồn nhân sự có tài năng, có sức khỏe…mặt khác nó sẽ khuyến khích các tập đoàn phát triển các thế mạnh, mở rộng sản xuất kinh doanh, đóng góp ngày càng lớn cho kinh tế.
3.2 Hoàn thiện thể chế kinh tế theo hướng từ bỏ cấu trúc lưỡng thể
Hoàn thiện thể chế kinh tế không chỉ có tác động thúc đẩy phát triển tập đoàn kinh tế mà tác động toàn diện đến sự phát triển nói chung. Xây dựng và hoàn thiện thể chế hỗ trợ phát triển các tập đoàn kinh tế trước hết cần tập trung giải quyết các mối quan hệ giữa Đảng và chính quyền, quan hệ giữa công đoàn và lãnh đạo tập đoàn, về cơ chế ủy quyền, cơ chế đại diện, cơ chế trách nhiệm, giữa các nhóm lợi ích khác nhau theo hướng quy định cụ thể các quyền hạn, trách nhiệm của các bên, xác định mối quan hệ trong các trường hợp cụ thể.
Khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế bằng nhiều biện pháp, trong đó cần tạo lập môi trường bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Không quá nhấn mạnh vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước mà xem nhẹ các thành phần kinh tế khác, cần xác định cụ thể là chủ đạo, dẫn dắt, định hướng mở đường và là điển hình của công nghệ mới, quản lý hiện đại, hiệu quả cao. Sự lớn mạnh của các thành phần kinh tế sẽ tất yếu hình thành các tập đoàn tư nhân, và đối với các tập đoàn này, Nhà nước chỉ có thể là một cổ đông trong rất nhiều cổ đông khác và tham gia với tư cách nhà đầu tư. Sự phát triển của các thành phần kinh tế cũng sẽ tạo những liên kết bền chặt hơn, những mối quan hệ đan xen là tiền đề hình thành những tập đoàn trong tương lai. Mặc dù đại diện cho sức mạnh kinh tế quốc gia nhưng các tập đoàn kinh tế không thể tồn tại và phát triển độc lập, nó cần hợp tác, liên kết với các loại hình doanh nghiệp khác, trong đó có những doanh nghiệp vừa và nhỏ hay cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Mặt khác, sự phát triển mạnh của khu vực kinh tế tư nhân trong thời gian gần đây được coi là một động lực để phát triển các tập đoàn kinh tế, đặc biệt là tập đoàn tư nhân.
Bản thảo luận chính sách số 2 của trường Đại học Havard – Kenedy ra ngày 24 tháng 6 năm 2008 cũng đã chỉ ra những yếu kém của nền kinh tế 2 thể chế ở Việt Nam và đưa ra nhận xét: “Để đạt được mục tiêu phát triển đầy tham vọng của mình, Chính phủ Việt Nam phải quyết định từ bỏ cấu trúc lưỡng thể này và phân bổ vốn trên cơ sở cạnh tranh. Nói một cách khác, khu vực Nhà nước được bảo hộ và trợ cấp không phải và sẽ không bao giờ là công thức dẫn đến thành công trong một nền kinh tế hội nhập toàn cầu”. Trong khi đó, dự báo của tổ chức Economist Intelligence Unit (EIU) cũng cho rằng “những nhóm có đặc quyền về chính trị có thể gây trở ngại cho cải cách và ngăn chặn quá trình cấu trúc lại một số doanh
nghiệp Nhà nước, ảnh hưởng tới việc tăng cường năng lực cạnh tranh và hạn chế kết quả tăng trưởng của Việt Nam” 19. Tóm lại, Nhà nước cần hành động tức khắc và quả quyết trong việc loại bỏ nền kinh tế lưỡng thể nhằm phát triển mô hình tập đoàn nói riêng và phát triển nền kinh tế nói chung.
19 Economist Intelligence unit, Vietnam: Country Forecast, September 2007, trang 36
3.3 Tăng cường giám sát trong các tập đoàn
Thực trạng phát triển các tập đoàn hiện nay cho thấy ngoài một số ít các tập đoàn tư nhân kinh doanh hiệu quả và hướng ngoại, phần lớn các tập đoàn mà điển hình là các tập đoàn kinh tế Nhà nước đang đi ngược lại với xu hướng phát triển chung của các mô hình tập đoàn trên thế giới. Các tập đoàn kinh tế quốc doanh ở Việt Nam đang đi lên nhờ sự hỗ trợ, độc quyền từ phía Nhà nước, hoạt động hướng nội và nhất là không có sự giám sát đúng nghĩa nào từ phía Chính phủ cũng như Nhà nước.
Do vậy, trong thời gian tới, Nhà nước cần phải đưa các biện pháp giám sát chặt chẽ của mình đến các tập đoàn. Điều đầu tiên là đưa Kiểm toán Nhà nước Việt Nam trở thành một cơ quan độc lập, giao quyền và năng lực đầy đủ cho kiểm toán Nhà nước để kiểm toán thường xuyên tập đoàn kinh tế quốc doanh, với mật độ kiểm toán dày hơn. Các báo cáo kiểm toán của cơ quan này đồng thời phải được công khai rộng rãi cho công chúng biết. Việc kiểm toán và công bố báo cáo kiểm toán hàng năm cũng được áp dụng với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Ngoài ra cần quy định những chế tài xử phạt nghiêm khắc đối với các tập đoàn vi phạm tránh để tình trạng kiểm soát lỏng lẻo như hiện tại làm tiền đề cho những vi phạm tái diễn.
Bên cạnh đó, Nhà nước cần thành lập một cơ quan riêng biệt giám sát chặt chẽ các hoạt động đầu tư của các tập đoàn, đánh giá mức độ rủi ro và hiệu quả đầu tư đó để sớm có quyết định thu hồi nguồn vốn Nhà nước nếu không thấy hiệu quả hay thâm hụt ngân sách.
3.4 Loại bỏ những ưu đãi tín dụng từ các ngân hàng quốc doanh cho các tập đoàn kinh tế Nhà nước
Có thể thấy một phần nguyên nhân dẫn đến việc đầu tư ra ngoài ngành quá nhiều vào các lĩnh vực nóng như chứng khoán, bảo hiểm, tài chính…ở không ít các tập đoàn đặc biệt là tập đoàn quốc doanh trong thời gian vừa qua là do những ưu đãi tín dụng của Nhà nước. Trong khi một khu vực hoạt động hiệu quả là doanh nghiệp, tập đoàn tư nhân đang khát vốn thì các chính sách ưu đãi tín dụng lại không hề ngó
ngàng đến. Thậm chí ngay cả những doanh nghiệp, tập đoàn tư nhân có kết quả kinh doanh khả quan cũng rất khó vay được tiền. Thay vào đó, khu vực doanh nghiệp Nhà nước mà đứng đầu là các tập đoàn quốc doanh lại được hướng hết ưu đãi này đến ưu đãi khác. Theo số liệu của Tổng cục thống kêm năm 2007, các doanh nghiệp Nhà nước chiếm giữ 80% lượng vốn tín dụng của các ngân hàng trong nước; 70% vốn vay nước ngoài, trong khi chỉ tạo ra 40% GDP 20, chưa kể trong 40% GDP ấy một phần lớn có được là nhờ đặc quyền khai thác các tài nguyên quốc gia. Không những thế, nguồn vốn này đều ưu đãi, được Nhà nước đứng ra bảo lãnh. Do vậy tình trạng thừa vốn và huy động vốn giá rẻ mạt xảy ra phổ biến trong các tập đoàn quốc doanh, dẫn đến hệ quả tất yếu là đầu tư dàn trải ra các ngành rủi ro để kiếm lợi tức thì đồng thời tạo ra sức ép tăng lạm phát cho Chính phủ. Do đó, giải pháp tối ưu hiện nay nhằm thúc đẩy sự phát triển lành mạnh hóa cho các tập đoàn kinh tế ở Việt Nam là chấm dứt việc bảo lãnh cho các khoản vay trong nước và quốc tế, loại bỏ ưu đãi tín dụng cho các tập đoàn nhà nước. Để thắt chặt ngồn cung vốn ưu đãi, biện pháp tốt nhất là để các tập đoàn Nhà nước tự chịu trách nhiệm trong việc cung ứng vốn dựa trên hiệu quả sản xuất kinh doanh của họ. Chính phủ phải luôn sẵn sàng coi tập đoàn Nhà nước cũng bình đẳng như các doanh nghiệp khác, sẵn sàng cho giải thể nếu thua lỗ quá mức. Thêm vào đó, có thể quy định các doanh nghiệp Nhà nước muốn phát hành nợ phải có sự tham gia ít nhất 10% của các ngân hàng nước ngoài trên cơ sở thương mại, không ưu đãi, bảo lãnh.
3.5 Sửa đổi một số quy định về tổ chức tập đoàn
Đối với các tập đoàn Nhà nước cần sửa đổi lại quy định về loại hình công ty con mà Nhà nước nắm giữ trên 50% cổ phần. Hiện nay, loại hình này vẫn được coi là doanh nghiệp Nhà nước, chịu sự điều chỉnh của Luật doanh nghiệp Nhà nước năm 2003 trên một số nội dung sẽ tạo ra những tiền đề của sự bất bình đẳng. Hơn nữa các loại hình này không hấp dẫn các nhà đầu tư bởi vì họ quan niệm rằng đây vẫn là loại hình Nhà nước chi phối và không dại gì đầu tư vào các doanh nghiệp do Nhà nước điều hành. Chính phủ cần quy định rõ những ngành, lĩnh vực nhạy cảm, có
20 Bản Thảo luận chính sách số 2, trường đại học Havard – Kenedy School, ngày 24/6/2008, trang 11
ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế thì mới cần duy trì tỷ lệ cổ phần chi phối, những ngành không được phép bán cổ phẩn cho nhà đầu tư nước ngoài, những ngành giới hạn tỷ lệ…, khắc phục tình trạng một số công ty không muốn sự có mặt của các nhà đầu tư nước ngoài vì nhiều lý do khác nhau.
Bên cạnh đó, cũng cần có thêm những quy định cụ thể tạo nền tảng cho chuyển đổi các doanh nghiệp độc lập và các doanh nghiệp thành viên của tập đoàn chẳng hạn như việc tập đoàn Nhà nước được tiếp quản và mua lại các doanh nghiệp Nhà nước độc lập, quy định cho các nhà đầu tư nước ngoài được mua số lượng lớn cổ phần, kể cả cổ phần chi phối ở một số ngành, lĩnh vực nhất định, buộc các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán phải áp dụng những phương pháp quản trị hiện đại theo hướng dẫn của ủy ban chứng khoán Nhà nước và chịu trách nhiệm về cáo bạch tài chính.
Quy định hạn chế về việc chuyển các doanh nghiệp Nhà nước thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Mặc dù về lý thuyết, hình thức công ty này sẽ hoạt động theo Luật doanh nghiệp 2005 như các hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn khác nhưng không thể thoát khỏi các chi phối hành chính, chủ quản. Việc chuyển đổi doanh nghiệp Nhà nước thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên không thể khắc phục được tính chất một chủ hờ của doanh nghiệp Nhà nước, không góp phần đổi mới phong cách quản lý, không làm giảm được sự can thiệp trực tiếp của các cơ quan Nhà nước vào hoạt động sản xuất kinh doanh”. Hiện tại, các tập đoàn thí điểm có số lượng công ty thành viên là công ty trách nhiệm hữu hạn khá lớn như Tập đoàn Than – Khoáng sản có 16 doanh nghiệp Nhà nước nắm giữ 100% vốn dưới dạng công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, con số này ở Tập đoàn Dệt May là 7, Tập đoàn Điện lực là 11…đồng thời số lượng doanh nghiệp Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn là khá lớn , trong đó nhiều doanh nghiệp không cần thiết phải giữ tỷ trọng trên chứng tỏ Nhà nước vẫn muốn duy trì sự can thiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Điều này làm hạn chế năng lực quản trị của các tập đoàn, đồng thời vẫn bó hẹp nền kinh tế nước ta trong cơ chế lưỡng thể đầy yếu kém.
3.6 Hoàn thiện Luật cạnh tranh và kiểm soát độc quyền
Cùng với quá trình thúc đẩy liên kết kinh tế, các hình thức độc quyền mới sẽ xuất hiện do đó Chính phủ cần có những biện pháp điều chỉnh kịp thời, tránh gây tổn hại đến quyền lợi của người tiêu dùng và của nền kinh tế. Ngoài ra, Luật cạnh tranh và các chính sách có liên quan khác cần được tiến hành nhất quán tránh tình trạng ưu đãi hoặc quyền hành thị trường quá mức. Mở rộng quyền hạn, bổ sung thêm nhân lực cho Cục Quản lý cạnh tranh hoặc thành lập Ủy ban về cạnh tranh và kiểm soát độc quyền nhằm kiểm soát chặt hơn nội dung này. Cụ thể Nhà nước cần xóa bỏ độc quyền và đặc quyền kinh doanh của doanh nghiệp Nhà nước tạo điều kiện nâng cao năng lực cạnh tranh của các tập đoàn, bình đẳng cho tập đoàn tư nhân và giải phóng được các nguồn lực kinh tế khác. Sửa đổi Luật cạnh tranh theo hướng quy định rõ hơn về các hành vi độc quyền. Quy định hiện nay liệt kê chín hành vi cạnh tranh không lành mạnh, không bao quát hết các hành vi diễn ra trên thực tế, chẳng hạn như vụ VNPT lợi dụng quyền nắm giữ đường trục đã không đáp ứng nhu cầu kết nối cho Viettel rõ ràng là một hành động phi cạnh tranh, mang tính độc quyền rõ ràng nhưng lại không nằm trong bất cứ hành vi nào được nêu trong Luật cạnh tranh.
Ngoài ra có thể kiểm soát độc quyền bằng việc thúc đẩy cạnh tranh. Những biện pháp có thể áp dụng như xây dựng cơ chế hỗ trợ cho các tập đoàn tư nhân phát triển, đa dạng hóa sở hữu trong các tập đoàn đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp nước ngoài tham gia vào thị trường Việt Nam, tham gia vào các lĩnh vực mà các tập đoàn hiện nay đang kinh doanh trừ lĩnh vực Dầu khí. Cần tách riêng hạ tầng trong các ngành độc quyền ra khỏi các tập đoàn, thành lập một công ty quản lý phần hạ tầng như đường trục trong lĩnh vực viễn thông. Điều này sẽ thu hút các thành phần kinh tế, các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia khai thác đường trục và cạnh tranh bình đẳng với tập đoàn kinh tế Việt Nam.
3.7 Khuyến khích hợp tác trong các tập đoàn
Xuất phát từ lợi ích của các bên tham gia, các doanh nghiệp chủ động liên kết để đạt được mục tiêu và Nhà nước xây dựng các chính sách của mình nhằm tạo điều