phù hợp với thực tiễn Việt Nam và thông lệ quốc tế. Kiểm toán độc lập cần được sử dụng như công cụ bổ trợ quan trọng cho giám sát từ xa và giảm nhẹ công việc của thanh tra tại chỗ đối với TCTD.
Xây dựng và triển khai khuôn khổ quy trình và phương pháp thanh tra, giám sát dựa trên cơ sở tổng hợp và rủi ro. Xây dựng hệ thống giám sát rủi ro trong hoạt động ngân hàng bao gồm giám sát vĩ mô và giám sát vi mô, có khả năng cảnh báo sớm đối với các TCTD có vấn đề và các rủi ro trong hoạt động ngân hàng, chủ yếu là rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ giá hối đoái, rủi ro thanh khoản. Trước mắt, cần xây dựng cơ chế kiểm soát tăng trưởng tín dụng và nợ xấu phát sinh, đồng thời có cơ chế xử lý rủi ro tín dụng hữu hiệu và phù hợp với nguyên tắc thị trường.
Tăng cường vai trò và năng lực hoạt động của Trung tâm thông tin tín dụng trong việc thu thập, xử lý và cung cấp thông tin tín dụng nhằm hỗ trợ hoạt động kinh doanh của các TCTD và hoạt động giám sát của NHNN đối với TCTD.
Xây dựng các biện pháp và quy trình nghiệp vụ về chống rửa tiền và tài trợ khủng bố, đồng thời có cơ chế trao đổi thông tin và phối hợp chặt chẽ giữa thanh tra ngân hàng và Trung tâm Chống rửa tiền; Xây dựng hệ thống các giải pháp phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý sự cố rút tiền hàng loạt và khủng hoảng ngân hàng có tính hệ thống.
(iii). Hoàn thiện hệ thống hạ tầng hỗ trợ công tác thanh tra, giám sát ngân hàng
Hiện đại hóa và sử dụng có hiệu quả công nghệ thông tin trong công tác thanh tra, giám sát ngân hàng. Xây dựng đường truyền dữ liệu độc lập của thanh tra ngân hàng với các TCTD. Hoàn thiện hệ thống công nghệ thông tin và thống kê báo cáo phục vụ hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng phù hợp yêu cầu giám sát ngân hàng dựa trên cơ sở rủi ro và hợp nhất.
Chỉnh sửa các quy định hiện hành để buộc mọi tổ chức tài chính - tín dụng và tổ chức khác có huy động tiền gửi đều phải tham gia bảo hiểm tiền gửi. Nâng cao vai trò, năng lực tài chính và hoạt động của Bảo hiểm Tiền gửi Việt Nam trong việc giám sát, hỗ trợ, xử lý các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi gặp khó khăn và góp phần bảo đảm an toàn hệ thống ngân hàng. Tăng cường sự phối hợp giữa Bảo hiểm Tiền gửi Việt Nam và Tổng cục giám sát ngân hàng trong quá trình giám sát các
Có thể bạn quan tâm!
- Định Hướng Chiến Lược Phát Triển Và Hội Nhập Của Ngành Ngân Hàng Việt Nam
- Giải Pháp Tăng Cường Công Tác Quản Trị Rủi Ro Trong Kinh Doanh Của Các Nhtm Việt Nam Theo Hiệp Ước Basel
- Sáp Nhập Các Ngân Hàng Thương Mại Để Tăng Quy Mô Vốn Tự Có
- Quy Định Chức Năng, Nhiệm Vụ Và Vai Trò Quản Trị Rủi Ro Các Cấp Tại Nhtm Việt Nam
- Quản trị rủi ro trong kinh doanh của ngân hàng thương mại Việt Nam theo hiệp ước Basel - 24
- Quản trị rủi ro trong kinh doanh của ngân hàng thương mại Việt Nam theo hiệp ước Basel - 25
Xem toàn bộ 277 trang tài liệu này.
TCTD và xử lý các vấn đề khó khăn của các TCTD. Từng bước chuyển sang thực hiện cơ chế bảo hiểm tiền gửi dựa trên cơ sở mức độ rủi ro của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi.
Trung tâm thông tin tín dụng phải trở thành một bộ phận trong tổ chức bộ máy của Tổng cục giám sát ngân hàng nhằm hỗ trợ tốt hơn cho các hoạt động thanh tra, giám sát rủi ro của Tổng cục giám sát ngân hàng và kiểm soát rủi ro của các TCTD.
(iv). Đổi mới hoạt động cấp giấy phép và hệ thống các quy định an toàn hoạt động ngân hàng
Rà soát và hoàn thiện quy định về an toàn hoạt động ngân hàng phù hợp hơn với thông lệ tốt, chuẩn mực quốc tế và đảm bảo việc tuân thủ nghiêm túc các quy định này, đặc biệt là quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro. Nâng cao năng lực tự kiểm soát của các TCTD và giám sát của NHNN đối với hệ thống công nghệ và thông tin của các TCTD để đảm bảo sự an toàn, hiệu quả và phát triển đồng bộ của hệ thống công nghệ ngân hàng. Ban hành quy định về tiêu chuẩn và yêu cầu tối thiểu đối với hệ thống quản trị nói chung và quản trị rủi ro nói riêng áp dụng đối với các TCTD, bao gồm hệ thống kiểm tra, kiểm toán nội bộ; hệ thống quản lý tài sản nợ/có và hệ thống quản trị rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro thị trường (kể cả tỷ giá hối đoái và lãi suất), rủi ro tác nghiệp.
Cần xác định lại điều kiện áp dụng các biện pháp can thiệp qua hỗ trợ tài chính trong hệ thống mạng lưới an toàn tài chính (bảo hiểm tiền gửi, cho vay tái cấp vốn của NHNN và chính sách quản lý khủng hoảng hệ thống). Tất cả các khoản hỗ trợ tài chính cho các TCTD gặp khó khăn đều phải có ý kiến chấp thuận hoặc theo đề nghị của cơ quan giám sát ngân hàng. Cơ quan giám sát ngân hàng phải được tham gia một cách tích cực và chủ động vào quá trình tái cơ cấu lại các TCTD.
Minh bạch hóa hoạt động ngân hàng (định kỳ tiến hành kiểm toán độc lập các TCTD, yêu cầu công bố thông tin hợp lý ra công chúng,…). Tạo điều kiện cho các TCTD cổ phần niêm yết cổ phiếu tại sở/TTGDCK.
Đổi mới hoạt động cấp giấy phép thành lập và hoạt động ngân hàng, đơn giản hóa thủ tục cấp giấy phép. Tạo điều kiện thuận lợi cho các TCTD thành lập và phát triển, đặc biệt là đối với các TCTD phi ngân hàng theo hướng bình đẳng trong tiếp cận thị trường và kinh doanh dịch vụ tiền tệ, ngân hàng trên cơ sở nâng cao kỷ luật thị trường, các yêu cầu về tiêu chuẩn thành lập các TCTD, quy định an toàn trong hoạt động ngân hàng để bảo đảm những TCTD thành lập mới phải có năng lực cạnh tranh, quy mô hoạt động, trình độ công nghê, chất lượng và mức độ an toàn cao. Cần tăng mức vốn pháp định đối với các loại hình TCTD cho phù hợp với thực tiễn và tạo điều kiện hình thành các TCTD có quy mô lớn.
Sớm ban hành quy định về cấp phép đối với các loại hình TCTD như ngân hàng đầu tư, ngân hàng phát triển. Cần có quy định phân biệt giữa các loại hình TCTD và tổ chức không phải là TCTD có hoạt động kinh doanh chính và chiếm tỷ trọng nhỏ, không vượt quá 30% quy mô hoạt động của TCTD, đồng thời có hệ thống quy chế an toàn phù hợp với các tổ chức không phải là TCTD có hoạt động ngân hàng.
Cải cách thủ tục hành chính trong cấp phép theo hướng tập trung các hoạt động cấp phép vào một đầu mối là Tổng cục giám sát ngân hàng để tạo điều kiện cho các hoạt động giám sát; loại bỏ các giấy phép con đối với các dịch vụ ngân hàng thuộc các hoạt động đã được quy định trong giấy phép thành lập và hoạt động của TCTD; loại bớt các điều kiện cấp phép mang tính định tính để giảm bớt sự tùy tiện, thay vào đó là các tiêu chí định lượng để đảm bảo tính minh bạch và trách nhiệm giải trình trong cấp phép.
NHNN phải thực sự là cơ quan cấp phép đối với mọi hoạt động ngân hàng và chấp hành chính sách, pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng trên lãnh thổ Việt Nam.
(v). Tăng cường hợp tác quốc tế trong hoạt động giám sát ngân hàng và hợp tác giữa thanh tra ngân hàng với các cơ quan giám sát tài chính trong nước, các cơ quan bảo vệ pháp luật trong nước
Xây dựng cơ chế trao đổi thông tin thường xuyên giữa cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng và các cơ quan giám sát tài chính khác, cơ quan bảo vệ pháp
luật thông qua việc ban hành một Nghị định của Chính phủ về phối hợp giữa cơ quan giám sát ngân hàng và các cơ quan giám sát tài chính phi ngân hàng. Cần thiết có các diễn đàn đối thoại chính sách giữa các cơ quan giám sát tài chính để bảo đảm cải cách chính sách quản lý dịch vụ và giám sát trong khu vực ngân hàng phù hợp với các khu vực khác của thị trường tài chính. Trong nội bộ ngành ngân hàng, cần có cơ chế phân định trách nhiệm và quyền hạn của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam và Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng, đồng thời có cơ chế phối hợp giám sát (cung cấp thông tin, kết quả giám sát,…) và xử lý rủi ro hữu hiệu của 2 cơ quan này đối với hệ thông các TCTD nhằm bao quát được thị trường, đồng thời tránh được sự trùng lặp thực hiện nhiệm vụ của 2 cơ quan này, hạn chế việc gây ảnh hưởng đến hoạt động của TCTD.
Đẩy mạnh hợp tác quốc tế và tham gia các Hiệp ước, thỏa thuận quốc tế về giám sát ngân hàng và an toàn hệ thống tài chính. Tăng cường trao đổi thông tin giữa cơ quan giám sát ngân hàng trong nước với các cơ quan giám sát ngân hàng nước ngoài để thực hiện giám sát chặt chẽ hoạt động của các TCTD nước ngoài tại Việt Nam; phối hợp hành động trong kiểm soát rủi ro mang tính khu vực và toàn cầu, đồng thời tranh thủ sự hỗ trợ kỹ thuật, công nghệ thanh tra, giám sát tiên tiến.
3.2.3.2. Đối với các Ngân hàng thương mại
(i). Phát triển mô thức quản trị ngân hàng theo thông lệ quốc tế tốt nhất
Quản trị ngân hàng được hiểu là một tập hợp các quan hệ giữa Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Ban điều hành, các cổ đông và những người có lợi ích liên quan nhằm tạo ra một cấu trúc tổ chức hợp lý để đặt ra mục tiêu và đạt được mục tiêu, và tạo ra một cơ chế giám sát hiệu quả. Nói cách khác, muốn đạt được các nguyên tắc thanh tra, giám sát hoạt động ngân hàng theo Hiệp ước Basel, các NHTM cần phát triển mô thức quản trị ngân hàng theo thông lệ quốc tế tốt nhất, bao gồm các nội dung chủ yếu sau:
- NHNN cần có văn bản quy định rõ ràng về cơ cấu của Hội đồng quản trị và tiêu chuẩn của các thành viên Hội đồng quản trị của các NHTM. Có thể nói, đây là nội dung quan trọng nhất vì Hội đồng quản trị chính là đầu não có quyền lực cao nhất của một NHTM. Các NHTM chỉ có thể hoạt động cũng như thực hiện thanh
tra, giám sát có hiệu quả khi tồn tại một Hội đồng quản trị có cơ cấu hợp lý và đủ năng lực làm việc theo yêu cầu.
- Các NHTM phải hoạch định và thường xuyên giám sát việc thực hiện các mục tiêu có tính chiến lược của ngân hàng mình. Các mục tiêu có tính chiến lược luôn là kim chỉ nam hoạt động của NHTM. Nói cách khác, việc không thực hiện được hoặc thực hiện khác đi so với các mục tiêu chiến lược đã đề ra luôn dẫn các NHTM đến các hậu quả mà NHTM chưa lường trước được. Để tránh tình trạng này, các NHTM cần phải có công cụ giám sát thường xuyên và hiệu quả việc thực hiện các mục tiêu chiến lược, bao gồm cả việc phân tích, đánh giá mức độ thực hiện, việc đề xuất chỉnh sửa hoặc điều chỉh chiến lược trong trường hợp cần thiết.
- Phân định rõ trách nhiệm của từng bộ phận trong ngân hàng. Việc phân định rõ trách nhiệm của từng bộ phận trong NHTM không chỉ có ý nghĩa xác định rõ ràng các chốt kiểm soát rủi ro mà còn là cơ sở để các cán bộ cấp cao hoặc các cán bộ có trách nhiệm thực hiện tốt công tác thanh tra giám sát. Thực hiện giám sát hợp lý các nhà quản lý cao cấp trong việc thực hiện các nghị quyết chính sách của Hội đồng quản trị cũng chính là một trong các biện pháp nhằm giúp các nhà quản trị NHTM cao nhất chủ động trong việc đối phó với các tình huống xảy ra ngoài dự kiến.
- Khai thác có hiệu quả hệ hệ thống tổ chức kiểm tra nội bộ và kiểm soát nội bộ. Các phòng/ban kiểm tra nội bộ và kiểm soát nội bộ được thành lập với chức năng chính là thực hiện thanh tra giám sát rủi ro và tính tuân thủ ngay trong tổ chức ngân hàng mình. Chính vì vậy, chỉ khi bộ máy này phát huy tối đa năng lực và hoạt động có hiệu quả, công tác thanh tra giám sát của toàn bộ NHTM mới có thể được đánh giá là tốt và có hiệu quả. Ngược lại, nếu các phòng/ban kiểm tra nội bộ và kiểm soát nội bộ hoạt động không tốt, chắc chắn công tác thanh tra giám sát của toàn bộ ngân hàng sẽ trì trệ, không phát hiện kịp thời rủi ro để ngăn chặn có hiệu quả.
(ii). Thay đổi quy trình thanh tra giám sát
Từ trước tới nay, mục tiêu của các bộ phận thanh tra, giám sát trong ngân hàng đều nghiêng về việc kiểm tra và giám sát riêng tính tuân thủ trong hoạt động.
Ngoài ra, các bộ phận thanh tra giám sát không có chức năng kiểm tra đánh giá mức độ rủi ro, vì vậy, hạn chế đáng kể năng lực hoạt động của các bộ phận này. Để khắc phục tình trạng này, thời gian tới, các NHTM cần thay đổi quy trình thanh tra, giám sát một cách phù hợp, theo hướng không chỉ kiểm tra tính tuân thủ trong hoạt động mà bao gồm cả việc kiểm tra và đánh giá mức độ rủi ro tại từng bộ phận hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
(iii). Xây dựng và áp dụng cơ chế thưởng phạt đủ hiệu lực
Để phát huy tính hiệu quả của công tác thanh tra giám sát, các NHTM phải xây dựng và thực hiện một cơ chế thưởng các bộ phận hoạt động kinh doanh nghiêm túc, có chất lượng và phạt các đơn vị vi phạm các quy định, quy chế của nhà nước và ngân hàng. Các NHTM phải mạnh dạn thay đổi mức độ thưởng hoặc phạt, đảm bảo đủ để khuyến khích các bộ phận cá nhân thực hiện tốt cũng như không những đủ để bồi hoàn hoặc phạt các các bộ phận/cá nhân đã vi phạm mà còn đủ mức độ để răn đe các bộ phận/cá nhân khác không dám vi phạm tiếp.
3.2.4. Nhóm giải pháp nhằm đáp ứng nguyên tắc thị trường, công bố thông tin
3.2.4.1. Đối với Ngân hàng Nhà nước
(i) Giải pháp nâng cao hiệu quả thông tin thống kê
Để khắc phục các khó khăn nêu trên, nâng cao hiệu quả thông tin, mở rộng phạm vi và phương pháp thu thập thông tin, cần thực hiện một số giải pháp sau:
(1) Tổ chức lại bộ máy làm công tác thống kê tại NHNN theo hướng giao một Vụ chuyên trách thực hiện để tạo điều kiện nâng cao trách nhiệm, thẩm quyền trong công tác thống kê;
(2) Đào tạo, nâng cao trình độ nghiệp vụ, năng lực chuyên môn cho các cán bộ làm công tác thống kê dưới hình thức cử cán bộ sang thực tập tại NHTW một số nước, tổ chức đoàn khảo sát hệ thống thông tin của NHTW một số nước;
(3) Đầu tư trang bị máy tính cho công tác thống kê (nâng cấp kịp thời máy tính cho công tác thống kê);
(4) Tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện hệ thống báo cáo tài chính đối với các TCTD và Quy định về công khai báo cáo tài chính để đảm bảo tính minh bạch, lành mạnh trong hoạt động ngân hàng, phù hợp với thông lệ quốc tế.
(ii). Áp dụng chính sách công khai và minh bạch thông tin
Công khai và minh bạch thông tin không chỉ giúp NHNN và các cán bộ cấp cao trong ngân hàng hiểu rõ, hiểu đúng và hiểu đầy đủ về hoạt động của một NHTM mà còn giúp cổ đông, những người hưởng lợi khác và thị trường có thể hiểu đúng đắn về tình hình tài chính, năng lực quản lý của ngân hàng trong mối liên quan với sự an toàn và hoạt động lành mạnh. Chính vì vậy, NHNN cần sớm quy định về việc buộc các NHTM phải công khai và minh bạch thông tin theo nguyên tắc:
Cung cấp thông tin chi tiết;
Cung cấp thông tin chính xác;
Cung cấp thông tin kịp thời.
(iii). Áp dụng cơ chế phạt/kỷ luật đối với các trường hợp báo cáo thông tin không đúng theo quy định
NHNN cần ban hành văn bản quy định các mức phạt/kỷ luật cụ thể đối với các trường hợp không thực hiện báo cáo hoặc báo cáo thông tin không đúng theo quy định về hình thức, nội dung và thời hạn báo cáo, đồng thời phải nghiêm khắc xử lý các trường hợp vi phạm nhiều lần để tránh tái phạm những lần tiếp theo.
3.2.4.2. Đối với các Ngân hàng thương mại
(i). Tổ chức thực hiện tốt công tác thống kê báo cáo
Khắc phục những vấn đề còn tồn tại trong công tác thống kê báo cáo như nêu tại Chương 2, thời gian tới các NHTM cần thực hiện tổ chức lại công tác thống kê báo cáo tại ngân hàng mình theo hướng:
Đảm bảo mọi thông tin hoạt động của ngân hàng phải được theo dõi và quản lý trên hệ thống;
Đảm bảo các thông tin quan trọng đều có thể khai thác tự động trên hệ
thống;
Đảm bảo NHTM thực hiện công tác thống kê báo cáo trung thực và theo đúng quy định của NHNN.
(ii). Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu tập trung hoá
Một hệ thống dữ liệu tập trung là điều kiện cần thiết để xây dựng bất kỳ hệ thống quản trị rủi ro nào trong ngân hàng. Kho dữ liệu này phải chứa toàn bộ các thông tin, dữ liệu về hoạt động của ngân hàng cũng như các nguồn thông tin bên ngoài như lãi suất thị trường, tỷ giá, hệ số tín nhiệm của khách hàng...Trên cơ sở đó, hệ thống mới đưa ra các thuật toán tính toán và phân tích mức độ rủi ro, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu và các tham số khác trong các mô hình lượng hoá rủi ro.
Một trong những biện pháp có thể thực hiện giúp các NHTM nhanh nhất có được một hệ thống chương trình quản trị rủi ro theo các chuẩn mực của Basel II là đầu tư mua sắm một hệ thống do công ty chuyên sản xuất chương trình phần mềm cho ngân hàng cung cấp. Hiện tại trên thế giới có rất nhiều công ty có sẵn các sản phẩm như thế và các giải pháp này áp dụng được với các NHTM ở nhiều quy mô khác nhau. Tuy nhiên tại Việt Nam, chưa có một giải pháp quản trị rủi ro theo Basel II nào được cung cấp bởi một công ty phần mềm Việt Nam. Mặt khác, vấn đề cốt lõi là nhân lực, tức là có được đội ngũ cán bộ hiểu và có thể sử dụng hệ thống giải pháp này một cách hiệu quả.
3.2.5. Nhóm giải pháp hỗ trợ đối với NHTM để áp dụng thành công hệ thống chuẩn mực quản trị rủi ro theo Hiệp ước Basel
3.2.5.1. Huấn luyện đào tạo nhân sự
Cần tiếp tục nâng cao trình độ nghiệp vụ, kỹ năng quản lý… của cán bộ trong toàn bộ hệ thống ngân hàng Việt Nam. Trong đó, đặc biệt chú trọng đến cán bộ làm công tác thanh tra giám sát và cán bộ làm công tác thông tin thống kê.
Đối với cán bộ làm công tác thanh tra, giám sát: phát triển đội ngũ thanh tra giám sát đủ về số lượng, có trình độ nghiệp vụ cao nhất là các nghiệp vụ ngân hàng hiện đại, quản trị rủi ro, phương pháp và nghiệp vụ thanh tra, giám sát tiên tiến. Thanh tra ngân hàng cần tăng cường học hỏi kinh nghiệm của các cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng nước ngoài về công nghệ, kỹ thuật thanh tra, giám sát ngân