Định Hướng Chiến Lược Phát Triển Và Hội Nhập Của Ngành Ngân Hàng Việt Nam


(i) Yêu cầu để hệ thống NHTM tồn tại an toàn;


(ii) Yêu cầu để hệ thống NHTM đủ tiêu chuẩn hội nhập kinh tế quốc tế;


(iii) Yêu cầu mở rộng, phát triển hệ thống NHTM Việt Nam ra nước ngoài;

(iv) Yêu cầu hệ thống NHTM Việt Nam hoạt động hiệu quả.

3.1.2. Định hướng chiến lược phát triển và hội nhập của ngành ngân hàng Việt Nam

3.1.2.1. Định hướng chung phát triển ngành ngân hàng Việt Nam đến năm 2020

Trải qua hơn 20 năm đổi mới và phát triển, khu vực ngân hàng Việt Nam mặc dù đã đạt được những kết quả nhất định, song trong giai đoạn phát triển tới, cần phải tập trung phấn đấu nâng cao năng lực tài chính và năng lực hoạt động, bắt kịp tốc độ phát triển của ngân hàng một số nước phát triển trong khu vực. Việt Nam đến năm 2020 phải đảm bảo phát triển một hệ thống ngân hàng vững mạnh, cạnh tranh và năng động, hỗ trợ và đóng góp tích cực vào sự phát triển của nền kinh tế; đồng thời phải hướng tới một nền tảng công nghệ ngân hàng sẵn sàng đối mặt với những thách thức của tự do hóa và toàn cầu hóa.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 277 trang tài liệu này.

Hệ thống ngân hàng ổn định, vững mạnh và an toàn, đó là hệ thống có thể chịu được những cú sốc đột ngột bất lợi về kinh tế và tài chính xảy ra từ bên trong và bên ngoài hệ thống mà không gây ảnh hưởng đáng kể các chức năng trung gian và chức năng của nền kinh tế. Có một hệ thống ổn định thì phải có các định chế tài chính hoạt động vững mạnh, hiệu quả và có hiệu lực, có các quy định quản lý thận trọng, có hệ thống thanh tra giám sát mạnh mẽ và cơ sở hạ tầng tài chính đáng tin cậy.

Định chế tài chính vững mạnh phải là một định chế tài chính có năng lực quản lý rủi ro, kỹ năng tín dụng cũng như quản trị doanh nghiệp vững mạnh. Quản trị doanh nghiệp sẽ được tăng cường thông qua việc cải thiện trong chất lượng và tăng tính chịu trách nhiệm trong quản lý của ban giám đốc điều hành.

Quản trị rủi ro trong kinh doanh của ngân hàng thương mại Việt Nam theo hiệp ước Basel - 19


(i). Tầm nhìn của khu vực ngân hàng đến năm 2020


Khu vực ngân hàng sẽ phát triển ổn định, lành mạnh và đa dạng, phát triển theo chiều sâu, nâng cao vị thế, vai trò và tầm ảnh hưởng của khu vực ngân hàng trong nền kinh tế quốc dân, trong hệ thống tài chính của khu vực và thế giới, nhằm đáp ứng đầy đủ nhu cầu đa dạng của nền kinh tế, của xã hội về các sản phẩm và dịch vụ tài chính.

(ii). Định hướng chung


Đến năm 2020, hệ thống ngân hàng Việt Nam tiếp tục tạo ra những bước đột phá mới, xây dựng một hệ thống ngân hàng phát triển ổn định bền vững với quy mô ở mức trung bình thế giới và khu vực, đảm bảo sự ổn định thị trường tài chính.

NHNN tập trung xây dựng và phát triển thành một ngân hàng trung ương với tầm nhìn, triển vọng vì lợi ích của khu vực tài chính, củng cố và nâng cao niềm tin của dân chúng đối với những động thái chính sách của NHNN, thực thi chính sách tiền tệ hiệu quả, chủ động với các công cụ mang tính thị trường từng bước tiến tới tự do hóa thị trường tài chính, nâng cao năng lực thanh tra giám sát ở một cấp độ mới.

Các tổ chức tín dụng, nhất là các NHTM trong nước có những đổi mới mạnh mẽ trong mô hình tổ chức, mở rộng các hoạt động xuyên quốc gia và nếu đủ mạnh có thể từng bước thành lập một số tập đoàn tài chính; đổi mới và nâng cao năng lực cạnh tranh, năng lực quản trị kinh doanh, quản trị rủi ro, năng lực tài chính; xây dựng những điều kiện tín dụng mới, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận nguồn vốn; phát triển tín dụng vi mô, các phương thức ngân hàng mới để đáp ứng tốt hơn nhu cầu vốn và những dịch vụ tài chính của nền kinh tế. Điều này vừa nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống tài chính, vừa điều chỉnh được cấu trúc của thị trường tài chính.

Phát triển hệ thống NHTM Việt Nam hoạt động an toàn, hiệu quả vững chắc dựa trên công nghệ và trình độ quản lý tiên tiến, áp dụng thông lệ, chuẩn mực quốc tế về hoạt động NHTM với chất lượng cao và mạng lưới phân phối phát triển hợp lý nhằm cung ứng đầy đủ, kịp thời, thuận tiện các dịch vụ, tiện ích ngân hàng cho nền


kinh tế. Hình thành thị trường tín dụng cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các loại hình TCTD, tạo cơ hội cho mọi tổ chức, cá nhân có nhu cầu và khả năng kinh doanh hợp pháp và có đủ điều kiện trả nợ ngân hàng đều được tiếp cận với tín dụng một cách thuận lợi.

Cổ phần hoá các NHTM nhà nước gắn liền với tăng vốn tự có, thực hiện tỷ lệ an toàn vốn theo thông lệ quốc tế (Hiệp ước Basel), mở rộng quy mô hoạt động, hiện đại hoá công nghệ và nâng cao trình độ quản lý kinh doanh. Củng cố và phát triển hệ thống NHTM cổ phần theo hướng tăng cường năng lực tài chính và quản lý; tiến hành giải thể, sáp nhập, mua lại, hợp nhất các NHTM cổ phần yếu kém về hiệu quả.

Phương châm hành động của các NHTM là “An toàn – Hiệu quả - Phát triển bền vững – Hội nhập quốc tế”.

3.1.2.2. Định hướng nâng cao năng lực quản trị rủi ro của các NHTM theo Hiệp ước Basel

(i). Tăng cường năng lực thể chế, cơ cấu lại mô hình tổ chức và hoạt động theo hướng phù hợp với thông lệ quốc tế

- Sắp xếp lại mô hình tổ chức bộ máy của các NHTM nhà nước từ trung ương đến chi nhánh theo hướng hiệu quả, phù hợp với xu hướng phát triển công nghệ, chiến lược kinh doanh của ngân hàng. Chuyển mô hình tổ chức theo chức năng và địa giới hành chính sang mô hình tổ chức theo nhóm khách hàng kết hợp với nhóm dịch vụ.

- Đổi mới bộ máy ở hội sở chính phù hợp với thông lệ quốc tế: phân biệt rõ ràng chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng quản trị và Ban điều hành, theo hướng: Hội đồng quản trị là cơ quan thường trực có quyền lực quan trọng nhất, có thực quyền đại diện chủ sở hữu của ngân hàng, có nhiệm vụ giám sát toàn diện hoạt động ngân hàng và Ban điều hành, đồng thời chịu rủi ro cuối cùng về hoạt động của ngân hàng. Thành lập Hội đồng/Uỷ ban quản lý rủi ro trực thuộc HĐQT.


- Xây dựng chiến lược kinh doanh theo chuẩn mực quốc tế, bao gồm chiến lược sản phẩm, chiến lược tài chính và chiến lược thị trường. Nâng cao năng lực quản trị chiến lược của bộ máy lãnh đạo các NHTM.

- Đa dạng hoá sản phẩm, dịch vụ ngân hàng gắn với nâng cao chất lượng và tiện ích của sản phẩm, dịch vụ ngân hàng phù hợp với nhu cầu của khách hàng. Tập trung phát triển và nâng cao chất lượng các sản phẩm huy động vốn, tín dụng và dịch vụ phi tín dụng. Hạn chế tập trung rủi ro vào hoạt động tín dụng trên cơ sở đa dạng hoá hoạt động và sản phẩm, dịch vụ. Đẩy mạnh phát triển sản phẩm mới trên cơ sở công nghệ tiên tiến.

- Chuẩn hoá các quy trình, thủ tục quản lý và tác nghiệp theo hướng đồng bộ, hiện đại, tự động hoá và tích hợp tập trung.

- Mở rộng quy mô hoạt động đi đôi với tăng cường năng lực kiểm tra, quản lý rủi ro, bảo đảm an toàn và hiệu quả kinh doanh. Phát triển hệ thống thông tin tập trung và quản lý rủi ro độc lập, tập trung toàn hệ thống để tăng cường vai trò điều hành kinh doanh, kiểm sát và quản lý rủi ro của Hội sở chính các NHTM. Tách bạch hoạt động quản lý rủi ro với hoạt động giao dịch, kinh doanh của ngân hàng. Phát triển các hệ thống vững chắc: Quản lý rủi ro, Quản lý tín dụng, Quản lý tài sản nợ/tài sản có, Quản lý tài chính-kế toán và chi tiêu nội bộ, Quản lý nhân lực, Quản lý thanh toán và bù trừ, Quản lý công nghệ, Quản lý chiến lược kinh doanh, Hệ thống thông tin quản lý nội bộ (MIS), Ban Quản lý tài sản có/tài sản nợ, Hệ thống kiểm tra kiểm soát nội bộ.

(ii). Tăng cường năng lực tài chính


- Tăng vốn tự có của các NHTM bằng lợi nhuận để lại; phát hành cổ phiếu, trái phiếu; sáp nhập; hợp nhất; mua lại. Bảo đảm duy trì vốn tự có của các TCTD phù hợp với quy mô tài sản có và mức độ rủi ro của tài sản trên cơ sở thực hiện tỷ lệ đảm bảo an toàn vốn tối thiểu 9%.

- Nâng cao chất lượng tài sản có và khả năng sinh lời; giảm tỷ trọng tài sản có rủi ro trong tổng tài sản có. Xử lý dứt điểm nợ tồn đọng và làm sạch bảng cân


đối của các NHTM. Xây dựng cơ chế ngăn ngừa, phát hiện sớm và quy trình xử lý nợ xấu.

(iii). Nâng cao khả năng ứng dụng công nghệ thông tin trong cả xử lý giao dịch lẫn quản lý, điều hành

- Thực hiện hiện đại hoá hệ thống công nghệ ngân hàng theo những bước đi tuần tự kết hợp nhảy vọt, đi thẳng vào công nghệ ngân hàng hiện đại.

- Tiếp cận nhanh, vận hành có hiệu quả và làm chủ được các ứng dụng công nghệ ngân hàng tiên tiến trong lĩnh vực thanh toán, quản trị rủi ro, quản trị kinh doanh, phát triển dịch vụ ngân hàng, kế toán – tài chính, thanh tra – giám sát và các nghiệp vụ ngân hàng cơ bản.

- Tìm kiếm các nguồn tài chính hỗ trợ dài hạn giúp các NHTM hiện đại hoá công nghệ ngân hàng trên cơ sở ứng dụng công nghệ thông tin, truyền thông và kỹ thuật số để nâng cao mức độ tự động hoá và tiện ích các dịch vụ ngân hàng. Phát triển hệ thống giao dịch tự động, mạng kết nối trực truyến, giao dịch một cửa.

3.1.3. Cơ hội và thách thức trong việc áp dụng Hiệp ước Basel trong công tác quản trị rủi ro tại các NHTM Việt Nam

3.1.3.1. Cơ hội


Môi trường kinh tế vĩ mô tại Việt Nam tương đối ổn định và lành mạnh. Kinh tế Việt Nam tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ và chắc chắn, môi trường pháp lý ngày càng thuận lợi cho việc kinh doanh đã kéo theo sự phát triển vượt bậc của các nhóm doanh nghiệp, bao gồm cả các doanh nghiệp nước ngoài hoạt động tại Việt Nam. Đây là những khách hàng tiềm năng rất lớn, hứa hẹn sự tăng trưởng của các NHTM, thúc đẩy quá trình tích lũy vốn tự có và cải thiện toàn bộ tình hình kinh doanh của các NHTM Việt Nam. Nhờ sự ổn định kinh tế vĩ mô, các ngân hàng có thể huy động một lượng tín dụng ngày càng tăng từ các thành phần kinh tế phục vụ cho vay thương mại và đầu tư, tạo lợi nhuận và mở rộng mạng lưới hoạt động để phục vụ khách hàng nhiều hơn.

Bên cạnh đó, Chính phủ Việt Nam luôn có chính sách hỗ trợ và khuyến khích khối tài chính, ngân hàng áp dụng các chuẩn mực quốc tế nhằm hoạt động an toàn, hiệu quả.


Đối với ngành ngân hàng, hội nhập kinh tế quốc tế tạo động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới và cải cách hệ thống ngân hàng Việt Nam, đặc biệt là nâng cao năng lực quản lý, cải thiện môi trường pháp lý trong lĩnh vực ngân hàng, giảm bớt sự cách biệt trong nền tảng pháp lý về kinh doanh tiền tệ của Việt Nam với thông lệ quốc tế, đáp ứng yêu cầu hội nhập và thực hiện cam kết với các tổ chức quốc tế. Các quy định về luật lệ minh bạch hơn sẽ tạo điều kiện đánh giá người vay tốt hơn, người cho vay bao gồm cả ngân hàng sẽ tính phí rủi ro thấp hơn.

Hội nhập quốc tế mở ra cơ hội trao đổi, hợp tác quốc tế giữa các NHTM trong hoạt động kinh doanh tiền tệ, đề ra biện pháp tăng cường giám sát và phòng ngừa rủi ro, từ đó nâng cao uy tín và vị thế của hệ thống ngân hàng Việt Nam trong các giao dịch tài chính quốc tế. Đồng thời, các ngân hàng Việt Nam có điều kiện tranh thủ vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý, điều hành và thói quen trên thương trường, qua đó đào tạo đội ngũ cán bộ phát huy lợi thế so sánh của mình để tăng cường khả năng cạnh tranh quốc tế và mở rộng thị trường ra nước ngoài.

Cùng với hội nhập kinh tế quốc tế là sự tham gia tích cực hơn của các ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, đây cũng là một trong những nguyên nhân thúc đẩy các NHTM Việt Nam phải chuyên môn hóa sâu hơn các nghiệp vụ ngân hàng, quản trị ngân hàng, quản lý tài sản nợ, tài sản có, quản lý rủi ro, cải thiện chất lượng tín dụng, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn và phát triển các dịch vụ ngân hàng mới.

Bên cạnh đó, các NHTM Việt Nam đang quyết tâm rất cao trong việc cải tổ toàn diện, trong đó có tình hình hoạt động kinh doanh và đang từng bước áp dụng các chuẩn mực quốc tế. Bên cạnh đó, tình hình tài chính của hầu hết các NHTM đều mạnh dần lên, cơ cấu tài chính hợp lý hơn, vốn tự có không ngừng tăng trưởng. Hơn nữa, là các NHTM Việt Nam nên rất am hiểu các thuộc tính của thị trường Việt Nam, có thế mạnh hơn hẳn trong việc duy trì và mở rộng đối tượng khách hàng là người Việt Nam.

Như vậy, hội nhập kinh tế quốc tế tạo ra những động lực và cơ hội cho các ngân hàng Việt Nam phát triển thành một hệ thống ngân hàng hoạt động năng động, an toàn, hiệu quả và phù hợp với các thông lệ quốc tế. Nói cách khác, bức tranh


kinh tế vĩ mô mà các ngân hàng Việt Nam đang hoạt động sẽ sáng sủa và nhiều hứa hẹn trong bối cảnh tự do hóa thương mại, nếu các ngân hàng chuẩn bị kỹ lưỡng và có những hành động sớm để có thể nắm bắt được các cơ hội này.

3.1.3.2. Thách thức


(i). Thách thức đến từ hội nhập kinh tế quốc tế


Ở tầm vĩ mô, khi nền kinh tế và lĩnh vực tài chính mở cửa hơn và hội nhập hơn vào nền kinh tế thế giới, cả nền kinh tế và khu vực tài chính sẽ dễ bị ảnh hưởng bởi các cú sốc từ bên ngoài và dễ bị tổn thương hơn. Ở phạm vi ngành ngân hàng, khối lượng giao dịch tăng lên cùng với sự gia tăng thương mại và đầu tư, năng lực quản lý cũng phải tăng lên để theo kịp yêu cầu. Vấn đề quan tâm đối với các nhà quản lý và lập pháp là đối phó như thế nào với tính dễ biến đổi của toàn cầu, đặc biệt là khi các ngân hàng lớn chưa có tình trạng tài chính lành mạnh như trường hợp của Việt Nam hiện nay. Nếu năng lực quản lý và lập pháp không theo kịp và không lường trước được sự phát triển nhanh chóng của các giao dịch tài chính, khả năng có thể xảy ra là hoặc ngành mất khả năng kiểm soát và dẫn đến khủng hoảng, hoặc quốc gia tái áp dụng các hạn chế để duy trì kiểm soát. Cả hai trường hợp đều có hại cho sự phát triển.

Có thể nói, xu hướng toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ trên phạm vi toàn cầu đã đặt ra những thách thức lớn cho hệ thống ngân hàng Việt Nam nói chung và các NHTM Việt Nam nói riêng ở mọi lĩnh vực, đặc biệt năm 2011 là năm mọi rào cản, hạn chế đối với ngân hàng nước ngoài theo cam kết khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) năm 2007 được dỡ bỏ, sẽ khiến các ngân hàng trong nước chịu áp lực cạnh tranh gay gắt và khốc liệt hơn. Cụ thể như sau:

Phía cung của ngành ngân hàng: Các thách thức do cạnh tranh khắc nghiệt hơn và cạnh tranh từ nhiều nguồn hơn chắc chắn sẽ xảy ra, song là một điểm tốt. Cạnh tranh giữa các ngân hàng trong nước, giữa ngân hàng trong nước với ngân hàng nước ngoài và cạnh tranh giữa các ngân hàng với các định chế tài chính phi ngân hàng. Điều này có nghĩa là chi phí huy động vốn có thể tăng lên và các ngân hàng phải tìm kiếm các nguồn vốn mới thông qua các công cụ vay như chứng chỉ


tín dụng và các sản phẩm tiết kiệm đa dạng tùy theo yêu cầu của khách hàng. Như vậy, các NHTM Việt Nam sẽ mất dần lợi thế cạnh tranh về quy mô, khách hàng và hệ thống phân phối.

Phía cầu của ngành ngân hàng: Về bên đi vay, các ngân hàng sẽ phải cạnh tranh để có được người vay có chất lượng cao bằng cách đưa ra các điều kiện ưu đãi, nhiều tính năng, dịch vụ chuyên nghiệp, phí thấp và thuận tiện, trong khi đó các NHTM nhà nước từ trước đến nay vẫn phải chịu gánh nặng về các doanh nghiệp nhà nước.

Thực tế cho thấy, năm 2010 đã chứng kiến sự mở rộng quy mô và phạm vi hoạt động của các ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam. Sau một thời gian ngắn, các ngân hàng này hoạt động khá hiệu quả và đang có những tín hiệu cho thấy, các ngân hàng nước ngoài bắt đầu “xâm chiếm” sang lĩnh vực khách hàng trong nước. Một số ngân hàng nước ngoài hiện diện dưới cả hai hình thức là chi nhánh và ngân hàng 100% vốn nước ngoài như HSBC, ANZ, Standard Chartered. Mặc dù mới gia nhập thị trường tài chính Việt Nam, nhưng hết quý III/2010, các ngân hàng 100% vốn nước ngoài đã huy động vốn đạt 77.444 tỷ đồng; tổng tài sản đạt 93.511 tỷ đồng, tăng 29,8% so với thời điểm cuối năm 2009; dư nợ tín dụng đạt 38.322 tỷ đồng, tăng 11,9% so với năm 2009.

Trong khi các NHTM trong nước cạnh tranh khốc liệt để phát triển tín dụng, chạy đua lãi suất, thì các ngân hàng nước ngoài lại đi sâu phát triển các lĩnh vực tài chính doanh nghiệp, kinh doanh vốn và thị trường ngoại hối, nghiệp vụ ngân hàng toàn cầu, thanh toán quốc tế và tài trợ chuỗi cung ứng, dịch vụ lưu ký chứng khoán. Theo báo cáo của NHNN, chênh lệch thu chi 10 tháng đầu năm 2010 của các tổ chức tín dụng nước ngoài đạt gần 3.500 tỷ đồng. Tỷ lệ nợ xấu của khối ngân hàng 100% vốn nước ngoài chỉ chiếm 0,4% tổng dư nợ cho vay.

Sau khi Việt Nam chính thức là thành viên của WTO thì việc mở cửa trong lĩnh vực ngân hàng đã sâu rộng hơn nhiều so với trước đây do Việt Nam phải thực hiện các cam kết trong quá trình hội nhập. Về tổng thể, các cam kết gia nhập WTO của Việt Nam trong lĩnh vực ngân hàng đã cho phép các TCTD nước ngoài được hiện diện ở Việt Nam dưới nhiều hình thức khác nhau, mở rộng phạm vi và loại

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 03/05/2023