- Rủi ro tái tài trợ: Khả năng mà một khách hàng vay không thể tái tài trợ bằng cách đi vay để trả một khoản nợ hiện tại. Nhiều loại hình cho vay thương mại kết hợp đảo nợ tại thời điểm đáo hạn cuối cùng. Thông thường, dự định hoặc giả định rằng người vay sẽ nhận một khoản vay mới để trả cho bên cho vay hiện tại.
- Rủi ro bảo lãnh phát hành: Rủi ro phát sinh từ bảo lãnh phát hành chứng khoán và bất kỳ chứng khoán nào chưa bán được hoặc bán chưa hết do người bảo lãnh chưa bán được chứng khoán theo giá mong đợi, và phải bỏ ra chi phí để giữ những chứng khoán đó trên sổ của mình cho đến khi có thể bán được theo mong đợi.
1.1.3 Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng:
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng. Thông thường, người ta phân rủi ro tín dụng thành ba nhóm: nguyên nhân thuộc về ngân hàng, nguyên nhân thuộc về người vay, nguyên nhân khác.
Nguyên nhân thuộc về ngân hàng
Thứ nhất: Sự yếu kém của đội ngũ cán bộ. Sự yếu kém ở đây bao gồm cả về năng lực và phẩm chất đạo đức. Nếu một cán bộ tín dụng non kém về trình độ, thiếu kiến thức, thiếu kinh nghiệm thì sẽ không có khả năng thẩm định và xử lý thông tin, đánh giá khách hàng thiếu chính xác, mức vay, lãi suất vay và kỳ hạn không phù hợp; dẫn đến chất lượng tín dụng thấp, rủi ro cao. Ngoài ra, nếu cán bộ tín dụng không tuân thủ theo đúng quy trình tín dụng như giải ngân trước khi hoàn thành chứng từ hay không kiểm tra giám sát việc sử dụng vốn của người vay, thì việc mất vốn rất dễ xảy ra. Hơn nữa, cán bộ tín dụng mà phẩm chất đạo đức kém, không có tinh thần trách nhiệm, dễ bị cám dỗ thì sẽ gây thiệt hại rất lớn cho ngân hàng bằng cách cho vay chỉ dựa trên mối quan hệ với khách hàng, dựa trên lợi ích cá nhân mà bỏ qua những điều kiện và thủ tục cần thiết.
Thứ hai: Sự giám sát của các cấp quản lý trong ngân hàng là thiếu sát sao. Cán bộ tín dụng cần có sự phê duyệt của lãnh đạo trước khi giải ngân. Vậy nên nếu cấp trên không có sự kiểm tra, đánh giá xem quyết định của cán bộ đã thực sự chính xác chưa thì nguy cơ rủi ro tín dụng sẽ là rất cao. Hơn nữa, sau khi giải ngân rồi, cán bộ tín dụng vẫn phải tiếp tục theo dõi khách hàng để sớm phát hiện ra dấu hiệu của những khoản
nợ có vấn đề. Tuy nhiên, việc theo dõi này đối với nhiều cán bộ chỉ mang tính hình thức. Do vậy, nếu các cấp quản lý không có sự giám sát đối với cán bộ tín dụng, hoạt động của các cán bộ tín dụng sẽ không hiệu quả, thậm chí dẫn đến những sai phạm đạo đức trong cho vay và thu nợ. Ngoài ra, các cơ quan cấp trên không quan tâm đến thực trạng tín dụng của ngân hàng thì sẽ không có những chỉ đạo kịp thời để ngăn ngừa và xử lý rủi ro xảy ra.
Có thể bạn quan tâm!
- Quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần An Bình - 1
- Quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần An Bình - 2
- Công Cụ Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng
- Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng
- Bài Học Đối Với Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần An Bình
Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.
Thứ ba: Ngân hàng chưa đa dạng hoá các danh mục đầu tư. Một công cụ luôn được nhắc đến trong quản trị tín dụng ở tất cả các ngân hàng trên thế giới là quản trị danh mục đầu tư. Quản trị danh mục làm cân đối và kiềm chế rủi ro bằng cách nhận dạng, dự báo và kiểm soát mức độ rủi ro với từng thị trường, khách hàng, loại sản phẩm tín dụng và điều kiện hoạt động khác nhau. Nhiều chuyên gia ngân hàng tin rằng đa dạng hoá là giải pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng hữu hiệu nhất. Mặc dù hiểu rõ tầm quan trọng của việc đa dạng hoá danh mục đầu tư, song rất nhiều ngân hàng chỉ cho vay một hoặc hai ngành hoặc chỉ cho vay một vài doanh nghiệp lớn, nhóm kinh doanh đơn lẻ. Một danh mục đầu tư phụ thuộc chủ yếu vào một ngành hay một loại mặt hàng là rất nguy hiểm vì không ngành nào là không có rủi ro.
Thứ tư: Định giá khoản vay không theo mức độ rủi ro của khách hàng. Về cơ cấu, lãi suất cho một khoản vay phải được xác định ở mức đảm bảo bù đắp được chi phí vốn đầu vào, chi phí qu ản lý, phần lợi nhuận mong muốn và phần bù đắp rủi ro của khoản vay. Khách hàng được đánh giá có mức độ rủi ro càng cao, phần bù rủi ro càng lớn. Nhưng vì cạnh tranh nên một số ngân hàng có thể chấp nhận mức giá cho vay thấp, thậm chí chỉ đủ chi phí vốn đầu vào và chi phí quản lý, không tính đến phần bù rủi ro. Việc làm đó trong dài hạn không những làm giảm lợi nhuận mà còn làm tăng tính rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng.
Nguyên nhân thuộc về người vay
Đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến rủi ro tín dụng, có thể chia nhóm này thành hai loại chính:
Thứ nhất: Do khách hàng kinh doanh thua lỗ nên mất khả năng trả nợ. Trường hợp này rất phổ biến do khách hàng có trình độ yếu kém trong dự đoán các vấn đề
kinh tế, yếu kém trong năng lực quản lý, sử dụng vốn sai mục đích, sản phẩm chất lượng thấp không bán được… Hơn nữa có rất nhiều người vay sẵn sàng lao vào những cơ hội kinh doanh mạo hiểm với kỳ vọng thu được lợi nhuận cao, mà không tính toán kỹ hoặc không có khả năng tính toán những bất trắc có thể xảy ra nên khả năng xảy ra tổn thất với ngân hàng là rất lớn.
Thứ hai: Do khách hàng cố tình chiếm dụng vốn của ngân hàng. Để đạt được mục đích thu được lợi nhuận, nhiều khách hàng sẵn sàng tìm mọi thủ đoạn để ứng phó với ngân hàng như mua chuộc hoặc cung cấp các báo cáo tài chính sai lệch. Trong trường hợp này, nếu không phát hiện ra, ngân hàng sẽ đánh giá sai về khả năng tài chính của khách và cho vay vốn với khối lượng và thời hạn không hợp lý, dẫn đến rủi ro tiềm ẩn là rất cao. Ngoài ra, cũng có những trường hợp người kinh doanh có lãi song vẫn không trả nợ cho ngân hàng đúng hạn mà cố tình kéo dài với ý định không trả nợ hoặc tiếp tục sử dụng vốn vay càng lâu càng tốt.
Nguyên nhân khác
Những nguyên nhân này phần lớn xuất hiện từ môi trường xung quanh như chất lượng thông tin, biến động kinh tế, chính sách pháp luật…
Thứ nhất: Chất lượng thông tin chưa cao. Các thông tin mà ngân hàng thu thập thường liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh, khả năng tài chính của khách hàng, tình hình kinh tế xã hội, cạnh tranh trên thị trường; sau đó dựa vào các thông tin thu thập được để ra quyết định cho vay. Tuy nhiên, trên thực tế thì không phải lúc nào các thông tin ngân hàng thu thập được đều có tính chính xác, đầy đủ và kịp thời. Do vậy, nếu hệ thống thông tin tín dụng của ngân hàng không hoạt động có hiệu quả, cập nhật được những thông tin đáng tin cậy thì tất yếu dẫn đến việc ngân hàng thất thoát vốn khi cho vay.
Thứ hai: Những biến động kinh tế không dự báo được. Khi nền kinh tế ổn định, tăng trưởng lành mạnh thì nhu cầu đầu tư trong xã hội có xu hướng gia tăng, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tín dụng. Tuy nhiên, khi xuất hiện những biến động kinh tế như lạm phát, giá tăng ở một số mặt hàng nào đó ảnh hưởng đến một nhóm ngành thì rủi ro tín dụng với ngân hàng là rất lớn. Nhiều người vay có thể thích ứng và vượt
qua khó khăn đó, nhưng cũng có rất nhiều người bị đình trệ hoạt động sản xuất, kinh doanh thua lỗ nên khả năng trả nợ vốn vay ngân hàng không được đảm bảo.
Thứ ba: Sự thay đổi trong các chính sách kinh tế, pháp luật. Sự thiếu nhất quán trong các chính sách kinh tế pháp luật cũng gây ảnh hưởng không nhỏ tới ngân hàng cũng như như các doanh nghiệp có sử dụng vốn vay ngân hàng. Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sẽ không ổn định khi có những thay đổi trong quy định về thuế, vốn..,cũng như hoạt động tín dụng của ngân hàng cũng bị tác động nhiều bởi những văn bản luật về tài sản đảm bảo, dự trữ, trích lập… Như vậy, các chính sách kinh tế, pháp luật không hoàn chỉnh cũng gây khó khăn có doanh nghiệp về khả năng trả nợ, cũng như đe doạ đến sự an toàn của ngân hàng trong cho vay.
1.2 Quản trị rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại
1.2.1 Khái niệm quản trị rủi ro tín dụng
Trong hoạt động kinh doanh tiền tệ luôn luôn chứa đựng những tiềm ẩn rủi ro, việc chủ quan trong hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng thương mại có thể dẫn đến hoạt động kém hiệu quả, mất an toàn và đổ vỡ đối với từng ngân hàng và với toàn hệ thống. Hiện tại, Tín dụng vẫn là hoạt động sinh lời chủ yếu của các Ngân hàng thương mại, song phần lớn rủi ro và mất an toàn đều phát sinh từ đây.
Rủi ro tín dụng là rủi ro chiếm tỷ trọng lớn nhất trong ngân hàng. Thời điểm hiện tại thì rủi ro tín dụng đang chiếm khoảng 80% rủi ro trong hoạt động ngân hàng. Đó là rủi ro đối tác có khả năng sẽ vi phạm nghĩa vụ trả nợ. Rủi ro tín dụng có thể chia thành một số loại:
- Rủi ro vỡ nợ: là khi người đi vay không thể đáp ứng được nghĩa vụ trả nợ. Vỡ nợ gây ra thua lỗ một phần hoặc toàn phần đối với khoản tiền được vay.
- Rủi ro giảm uy tín: là rủi ro uy tín tín dụng của người phát hành một trái phiếu hay cổ phiếu bị suy giảm. Điều này chưa có vỡ nợ nhưng xác suất vỡ nợ tăng.
- Rủi ro nguy cơ, tức là sự bất trắc về giá trị tương lai của khoản tiền có thể thua lỗ vào thời điểm vỡ nợ chưa biết. Rủi ro nguy cơ bắt nguồn từ những nguy cơ tương lai - lượng tiền nợ - có nhiều bất trắc. Vì chỉ có nguy cơ tương lai mới gây ra thua lỗ trong trường hợp vỡ nợ và vì chúng không chắc chắn, điều đó dẫn tới rủi ro nguy cơ.
- Rủi ro đối tác là một hình thức rủi ro tín dụng cụ thể xuất phát từ phái sinh, có thể chuyển đổi từ đối tác này sang đối tác khác.
- Các rủi ro khác
Quản trị rủi ro tín dụng thuộc về một trong những lĩnh vực điều hành của ngân hàng. Nó có ngoại diên rộng và liên quan đến rất nhiều nghiệp vụ ngân hàng khác.
Trong Dự thảo Thông tư năm 2014 của Ngân hàng Nhà nước quy định về hệ thống quản lý rủi ro trong hoạt động ngân hàng có giải nghĩa “Hệ thống quản lý rủi ro là tập hợp các cơ cấu tổ chức, phân cấp uỷ quyền, chiến lược, chính sách, quy trình, hạn mức rủi ro, hệ thống thông tin quản lý để nhận dạng, đo lường, đánh giá và kiểm soát rủi ro trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài”. Do đó, Quản trị rủi ro tín dụng có thể hiểu là quá trình xây dựng và thực thi các chiến lược, chính sách, quy trình, … liên quan đến hoạt động tín dụng nhằm phòng ngừa, hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng.
1.2.2 Sự cần thiết của quản trị rủi ro tín dụng trong điều hành hoạt động ngân hàng
Rủi ro tín dụng phát sinh là những bất trắc có thể dẫn tới thua lỗ hoặc thiệt hại về lợi nhuận. Ngân hàng áp đặt chi phí vốn cho các loại rủi ro tín dụng hỗ trợ việc mô phỏng rủi ro bởi vì chúng cho phép định lượng những loại rủi ro tín dụng chính. Trong tài chính thì rủi ro và lợi nhuận là 2 mặt của một đồng xu [5]. Rất dễ để cho vay và có được doanh thu hấp dẫn từ những người đi vay mạo hiểm. Nhưng cái giá phải trả là rủi ro cao hơn rủi ro của một ngân hàng thận trọng. Các ngân hàng này giới hạn rủi ro bằng cách hạn chế khối lượng kinh doanh và loại ra những người đi vay rủi ro cao. Họ tránh được thua lỗ nhưng thị phần và doanh thu sẽ thấp hơn. Sau một thời gian, những ngân hàng mạo hiểm hơn chấp nhận thua lỗ sẽ lớn hơn nên kết quả kém hơn những ngân hàng thận trọng và có thể bị phá sản.
Mục đích của quản trị rủi ro tín dụng chính là kiểm soát rủi ro tín dụng. Điều này chỉ khả thi khi có cách đánh giá định lượng và định tính về rủi ro tín dụng. Với việc xác định được tổn thất ước tính của một khoản cho vay, ngân hàng sẽ thực hiện được thêm các mục tiêu sau:
Thứ nhất, giúp ngân hàng tăng cường khả năng quản trị nhân sự, cụ thể là quản trị đội ngũ cán bộ tín dụng. Theo lý thuyết quản trị, quản trị nhân sự bao gồm bốn vấn đề chính: tuyển dụng; đào tạo lại; hệ thống lương thưởng; vấn đề thăng tiến. Trên thực tế, nhiều ngân hàng trên thế giới đã xây dựng hệ thống chấm điểm kết quả công việc của cán bộ tín dụng để xác định mức lương và lộ trình thăng tiến phù hợp. Với cán bộ tín dụng, lương và thưởng thường được dựa vào số dư nợ, số lượng khách hàng và chất lượng tín dụng. Nếu cán bộ tín dụng có dư nợ cao nhưng chất lượng tín dụng thấp thì lương - thưởng vẫn có thể rất thấp, và tất nhiên là không thể thăng tiến. Như vậy, việc xác định mức tổn thất ước tính với từng danh mục cho vay của từng cán bộ tín dụng sẽ định lượng rõ chất lượng tín dụng của từng cán bộ. Điều này buộc cán bộ tín dụng phải luôn nỗ lực tránh rủi ro nếu không sẽ nhận mức lương - thưởng rất thấp cho dù là cán bộ có thâm niên cao.
Thứ hai, xác định tổn thất ước tính sẽ giúp ngân hàng xây dựng hiệu quả hơn Quỹ dự phòng rủi ro tín dụng. Hiện nay, theo Thông tư 02/2013/TT-NHNN về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng, các ngân hàng Việt Nam đa phần vẫn áp dụng việc trích lập dự phòng theo “tuổi nợ”, chỉ có một số ít ngân hàng đã có hệ thống xếp hạng hiệu quả và sử dụng phương pháp định tính để xác định mức độ rủi ro của các khoản tín dụng, từ đó trích lập dự phòng theo tỷ lệ phù hợp. Tuy nhiên, nếu ngân hàng xác định được chính xác tổn thất ước tính thì việc trích lập trở nên đơn giản, hiệu quả và chính xác hơn rất nhiều.
Thứ ba, việc xác định được tổn thất ước tính, đặc biệt là xác định được PD (Probability of Default) - xác suất khả năng vỡ nợ của khách hàng sẽ giúp ngân hàng nâng cao được chất lượng việc giám sát và tái xếp hạng khách hàng sau khi cho vay. Các ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay đều có hệ thống xếp hạng khách hàng và hệ thống này được sử dụng để làm căn cứ cho thẩm định tín dụng và ra quyết định cho vay. Việc xác định chính xác tổn thất có thể dự tính sẽ giúp ngân hàng xác định chính xác được giá trị khoản vay.
Vì vậy, điều kiện và biện pháp hàng đầu để đảm bảo sự ổn định của ngân hàng thương mại là đảm bảo cho hoạt động tín dụng lành mạnh và có hiệu quả. Cụ thể:
- Ngân hàng phải kiểm tra nghiêm ngặt trước khi cho vay, trong quá trình sử dụng vốn vay, khả năng hoàn trả.
- Phải tuân thủ quy trình cho vay, thẩm định, đảm bảo tính độc lập trong kiểm tra từ khi tiếp nhận dự án đến phê duyệt cho vay.
- Việc cho vay chỉ tiến hành trên cơ sở có đảm bảo theo đúng quy định.
1.2.3 Nội dung quản trị rủi ro tín dụng
1.2.3.1 Quy trình quản trị rủi ro tín dụng
Quy trình quản trị rủi ro tín dụng thông thường bao gồm các bước sau: Nhận diện; Đánh giá, đo lường; Kiểm soát. Ba bước đó bao gồm các nội dung như Tiêu chuẩn cấp tín dụng; Hệ thống chấm điểm khách hàng; Hạn mức tín dụng; Giám sát các khoản tín dụng cụ thể và giám sát các danh mục tín dụng; Kiểm tra tín dụng.
Bước 1: Nhận diện:
Cơ sở cho việc quản trị rủi ro tín dụng có hiệu quả là việc xác định những rủi ro tiềm tàng và rủi ro hiện có trong bất cứ sản phẩm hay hoạt động nào của ngân hàng. Một mức độ rủi ro tín dụng chấp nhận được có thể được thiết lập chỉ sau khi đã xác định được những nhân tố tạo nên rủi ro tín dụng. Việc ngân hàng phát hiện tất cả các rủi ro tín dụng trong các sản phẩm và hoạt động của mình là rất quan trọng. Để làm được như vậy, ngân hàng cần xem xét kỹ lưỡng các đặc thù rủi ro tín dụng của từng sản phẩm hay hoạt động. Rủi ro tín dụng có thể được phát hiện qua những yếu tố tạo nên rủi ro tín dụng. Các yếu tố tạo nên rủi ro tín dụng được trình bày dưới đây:
- Các khách hàng khác nhau và ngành nghề khác nhau thể hiện các rủi ro khác nhau:
Việc lựa chọn các khách hàng mục tiêu và ngành nghề mục tiêu là rất thiết yếu đối với chất lượng của tài sản. Khả năng tồn tại của bất cứ ngân hàng nào cũng đều liên quan rất chặt chẽ với khả năng tồn tại của khách hàng/ngành nghề mà ngân hàng cấp tín dụng.
Trên cơ sở những tài khoản riêng biệt có rủi ro tín dụng cao, rủi ro tín dụng có thể được giảm bớt thông qua những biện pháp như: yêu cầu tăng thêm tài sản bảo đảm và bảo lãnh, giám sát chặt chẽ hơn và yêu cầu tăng thêm vốn đầu tư của chủ sở hữu. Khi các thông tin tài chính khan hiếm và/hoặc không tin cậy được (điều rất phổ biến với hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ), việc áp dụng các biện pháp trên là hết sức cần thiết.
- Các sản phẩm tín dụng khác nhau thể hiện các rủi ro khác nhau
Ngân hàng cung cấp nhiều hình thức tín dụng, như cho vay bằng đồng Việt nam và ngoại tệ, cấp tín dụng hợp vốn, tài trợ dự án, bảo lãnh và tín dụng thư cho tài trợ thương mại. Các loại hình tín dụng khác nhau này hàm chứa mức độ rủi ro khác nhau.
Loại hình tài sản cần phải phù hợp không chỉ với nhu cầu tài sản mà còn với mức độ tin cậy về khả năng trả nợ của khách hàng. Điều này càng trở nên có ý nghĩa quan trọng khi mà ngân hàng tiếp tục mở rộng hoạt động của mình. Rủi ro gắn liền với từng loại hình tín dụng cần phải được hiểu rõ ở mức độ của từng khách hàng. Chỉ những khách hàng có mức độ tin cậy về khả năng trả nợ cao nhất mới đủ điều kiện để được cấp các loại hình tín dụng có độ rủi ro cao.
- Rủi ro thanh toán gắn với các công cụ tài chính khác nhau
Rủi ro tín dụng cũng phát sinh đối với các loại công cụ tài chính không phải là các khoản cấp tín dụng, chẳng hạn như các giao dịch ngoại hối và các giao dịch liên ngân hàng. Rủi ro của đối tác không trả nợ vào lúc đáo hạn của một hợp đồng ngoài bảng cân đối kế toán được hiểu là rủi ro thanh toán. Rủi ro phát sinh vào thời điểm các khoản thanh toán bằng các loại tiền tệ khác nhau cần phải được trao đổi giữa các bên của hợp đồng. Đó là rủi ro mà bên đối tác không thanh toán cho ngân hàng khi ngân hàng đã thực hiện thanh toán cho bên bên đối tác.
- Khả năng cấp tín dụng và chuyên môn của cán bộ tín dụng
Rủi ro tín dụng phụ thuộc và năng lực của bộ phận tín dụng trong việc phát hiện và hạn chế rủi ro từ lúc xem xét quyết định cấp tín dụng cũng như trong suốt thời hạn cấp tín dụng. Năng lực cấp tín dụng phụ thuộc vào chuyên môn của cán bộ tín dụng và nhân viên của họ và các nguồn lực của ngân hàng (về nhân sự cũng như về cơ sở vật