Hiệu quả cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng thương mại cổ phẩn Hàng Hải Việt Nam - Chi nhánh Bắc Ninh - 11


chắn hơn cho các NHTM và sau đó khuyến khích họ trong việc vay vốn đối với các DNNVV, cụ thể:

- Ban hành luật sở hữu tài sản và các văn bản dưới luật quy định rõ ràng chắc năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan quản lý nhà nước về chứng thư sở hữu tài sản. Thêm nữa các cơ quan công chứng nhà nước phải đảm bảo các giấy tờ mà mình công chứng cho doanh nghiệp là hoàn toàn đúng với bản gốc để các ngân hàng có căn cứ chính xác để thẩm định các giấy tờ đảm bảo vay vốn của doanh nghiệp. Chính phủ phải có quy định rõ ràng về vấn đề này.

- Ban hành các văn bản dưới luật, hướng dẫn thực hiện việc xử lý, phát mại tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh. Cần đưa ra một quy trình thủ tục riêng biệt, độc lập hơn cho các ngân hàng để xử lý tài sản thế chấp khi người vay không trả được nợ. Việc xử lý phải thực hiện trên nguyên tắc bảo vệ quyền cho các bên sở hữu tài sản thông qua thủ tục phát mại, bán đấu giá. Nếu quá trình đó không thực hiện được thì ngân hàng cho vay có toàn quyền trong việc phát mại tài sản để thu hồi nợ.

- Chính sách thuế: Hiện nay, chúng ta có nhiều loại thuế suất khác nhau với nhiều mức thuế. Việc tồn tại nhiều loại thuế không chỉ làm méo mó bức tranh cạnh tranh trên thị trường mà còn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp và cán bộ thuế “thỏa thuận” với nhau trong việc xác định mức thuế. Chính sách thuế ở Việt Nam vẫn chủ yếu hướng vào vùng, sản phẩm và thành phần kinh tế. Chính sách này không khuyến khích theo quy mô doanh nghiệp và như vậy hoàn toàn chưa khuyến khích được DNNVV. Chính vì vậy, cần tiếp tục cải cách chính sách thuế, xóa bỏ sự chênh lệch giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, đơn giản hóa hệ thống thuế theo hướng giảm số lượng các thuế suất, làm minh bạch và cụ thể hóa cơ chế ưu đãi thuế đối với các doanh nghiệp. Đổi mới phương thức hoàn thuế, góp phần giải quyết khó khăn về thuế cho các doanh nghiệp nhất là DNNVV.

- Cần tạo điều kiện và có những chính sách thông thoáng hơn trong việc cấp đất và thuê đất đối với DNNVV để giúp các doanh nghiệp này có điều kiện triển khai, mở rộng sản xuất. Đồng thời nhà nước cũng cần cải tiến hệ thống cấp phép đối với việc thực hiện chuyển quyền sử dụng đất để giảm bớt sự phiền toái, quan liêu,


không có hiệu quả kinh tế và tạo kẽ hở để một số cán bộ trong kĩnh vực này lạm dụng chức quyền, yêu sách tham nhũng.

3.3.1.2. Thực hiện chính sách hỗ trợ DNNVV

Khuyến khích đầu tư

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 104 trang tài liệu này.

- Chính phủ trợ giúp DNNVV phát triển chính là ở các biện pháp tài chính, tín dụng áp dụng trong từng thời kỳ để đầu tư vào một số ngành nghề, bao gồm cả các ngành nghề truyền thống và các ngành nghề cần khuyến khích phát triển.

- Chính phủ khuyến khích các tổ chức tài chính, các doanh nghiệp và thể nhân góp vốn đầu tư vào các DNNVV

Hiệu quả cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng thương mại cổ phẩn Hàng Hải Việt Nam - Chi nhánh Bắc Ninh - 11

Trợ giúp về tài chính

- Nhà nước khuyến khích thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng DNNVV ở các địa phương. Nhà nước phải quy định rõ cơ chế thành lập và hoạt động của các quỹ bảo lãnh tín dụng địa phương, hướng dẫn nghiệp vụ bảo lãnh tín dụng cho DNNVV.

- Hoạt động của quỹ là cấp tín dụng cho các dự án khả thi đã được tổ chức tín dụng thẩm định có hiệu quả nhưng chủ đầu tư không đủ tài sản thế chấp. Việc cấp bảo lãnh thực hiên theo quy chế cộng đồng trách nhiệm và phân chia rủi ro. Có nghĩa là trong quan hệ vay vốn, doanh nghiệp phải có số vốn chủ tối thiểu là 20% giá trị khoản vay, quỹ chỉ bảo lãnh 80% còn lại. Phân chia rủi ro giữa quỹ và tổ chức tín dụng là 70/30. Tuy nhiên, sau 8 năm qua chỉ có 6 quỹ bảo lãnh tín dụng được thành lập, trong đó có 3 quỹ thực sự hoạt động là do nguồn vốn từ quỹ này chủ yếu được lấy từ ngân sách nhà nước. Do vậy, quỹ hỗ trợ phát triển DNNVV là rất quan trọng, nhưng cùng với đó cũng phải tiếp tục thực hiện mô hình quỹ bảo lãnh tín dụng, bởi DNNVV tiếp cận vốn rất khó, không có quỹ đứng ra bảo lãnh, thì doanh nghiệp rất khó đến được với ngân hàng”.

Thành lập quỹ phát triển DNNVV

- Mục đích hoạt động: Quỹ này hoạt động nhằm tài trợ các chương trình trợ giúp nâng cao năng lực cạnh tranh cho DNNVV, chú trọng hỗ trợ các doanh nghiệp trong hoạt động đổi mới phát triển sản phẩm có tính cạnh tranh cao và thân thiện


với môi trường, đầu tư, đổi mới trang thiết bị kỹ thuật, công nghệ tiên tiến và phát triển công nghiệp hỗ trợ, nâng cao năng lực quản lý doanh nghiệp.

- Nguồn vốn của quỹ này: Vốn từ các ngân sách nhà nước, các khoản viện trợ, tài trợ của các tổ chức nước ngoài, các tổ chức quốc tế, lợi nhuận từ các hoạt động của quỹ và các nguồn vốn hợp pháp khác.

Các hoạt động chính của quỹ:

- Huy động và tiếp nhận các nguồn vốn tài chính trong nước để hỗ trợ phát triển DNNVV theo quy định của pháp luật;

- Tiếp nhận, quản lý và sử dụng các nguồn tài trợ, viện trợ từ các tổ chức, cá nhân ngoài nước để thực hiện các hoạt động hỗ trợ phát triển DNNVV. Tài trợ kinh phí cho các chương trình, các dự án trợ giúp nâng cấp năng lực cạnh tranh, chú trọng nâng cấp năng lực mảng kĩ thuật, công nghệ cho DNNVV (chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ) do Nhà nước phải giao cho các bộ các ban ngành địa phương, hiệp hội doanh nghiệp triển khai thực hiện sau khi được phê duyệt;

- Ủy thác cho các tổ chức tín dụng cho vay ưu đãi các DNNVV có dự án đầu tư khả thi thuộc lĩnh vực ưu tiên, khuyến khích của ngân hàng nhà nước phải phù hợp với hoạt động của quỹ.

3.3.1.3. Xây dựng các trung tâm tư vấn hỗ trợ DNNVV

Một trong những hạn chế của DNNVV là thiếu thông tin và khả năng tiếp cận thi trường. Đội ngũ cán bộ quản lý còn nhiều hạn chế về trình độ nên đại đa số DNNVV không xây dựng được kế hoạch và chiến lược phát triển ổn định và lâu dài. Đặc biệt đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh, ngay cả việc xây dựng kế hoạch kinh doanh cũng ít doanh nghiệp làm được. Vì vậy việc xây dựng các trung tâm tư vấn hỗ trợ DNNVV là hết sức cần thiết đóng vai trò quan trọng góp phần trợ giúp DNNVV trong lĩnh vực sau:

Thứ nhất, đào tạo nâng cao trình độ đội ngũ quản lí điều hành DNNVV. Một trong những khó khăn hạn chế sự phát triển của DNNVV là trình độ quản lí của đội ngũ doanh nghiệp và cán bộ quản lí thấp kém do không được bồi đưỡng kiến thức quản trị doanh nghiệp, kiến thức pháp luật, kiến thức mới của nền kinh tế thị


trường. Chính vì chưa có đủ kiến thức và điều kiện để áp dụng các phương pháp sản xuất, quản lý chất lượng sản phẩm tiên tiến, nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Để khắp phục tình trang trên, một việc hết sức quan trọng là tổ chức đào tạo kiến thức kinh doanh cho đội ngũ quản lý DNNVV, kể cả các chủ doanh nghiệp.

- Đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý sẵn có, cung cấp cho họ những kiến thức mới, những phương thức quản lý kinh doanh tiên tiến, phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế thị trường.

- Đào tạo các chủ DNNVV. Họ có thể có nhiều kinh nghiệp sản xuất, thành đạt trong kinh doanh nhưng chưa có dịp tiếp xúc một cách có hệ thống các kiến thức mới về quản lý, tài chính doanh nghiệp, kiến thức về pháp luật.

- Đào tạo kiến thức cho doanh nghiệp mới. Để làm tốt việc này nên chăng cần đưa kiến thức về lập nghiệp vào chương trình đào tạo của năm cuối cùng của các trường đại học, cao đẳng và trung học dậy nghề, nhằm trang bị cho các chủ doanh nghiệp tương lai những kiến thức cơ bản và có những kiến thức trong việc định huớng trong việc tìm kiếm việc làm mới sau khi tốt nghiệp tại các trừơng này.

Thứ hai, Hướng dẫn xây dựng dự án, phương án kinh doanh khả thi. Xây dựng dự án phương án sản xuất kinh doanh đóng vai trò quan trọng cho DNNVV, giúp DNNVV biến một ý tưởng mới thành hoạt động kinh doanh thành công về phương diện tài chính, nhưng tự mình có thể lập phương án sản xuất kinh doanh để trình với các NHTM xem xét đáp ứng nhu cầu vốn cho DNNVV là một điều hết sức hiếm hoi và khó khăn mà các DNNVV nhất là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh không thể tự làm được. Vì vậy rất cần thiết phải có những hoạt động tư vấn về lĩnh vực này để giúp DNNVV có thể thể hiện ý tưởng sản xuất kinh doanh của mình ra giấy và giúp các nhà ngân hàng biết được khả năng và độ tin cậy của người vay, biết được mục đích sử dụng tiền vay và khả năng sinh lời của số tiền đó để hoàn trả nợ vay cho ngân hàng, từ đó các ngân hàng có thể xem xét đưa ra các nhận định trước khi đầu tư vốn cho doanh nghiệp.


Thứ ba: Đổi mới, nâng cao năng lực công nghệ, trình độ kỹ thuật:

- Thông qua các chương trình trợ giúp, chính phủ thực hiện chính sách hỗ trợ phù hợp với chiến lược và lĩnh vực ưu tiên phát triển của nền kinh tế trong từng giai đoạn như sau:

- Khuyến khích đầu tư đổi mới công nghệ, đổi mới trang thiết bị kỹ thuật theo chiến lược phát triển và mở rộng sản xuất của các DNNVV với các sản phẩm xuất khẩu, sản phẩm công nghiệp hỗ trợ.

- Nâng cao năng lực công nghệ của các DNNVV thông qua chương trình hỗ trợ nghiên cứu, phát triển công nghệ sản xuất các sản phẩm mới, chuyển giao công nghệ, ứng dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật vào sản xuất.

- Giới thiệu, cung cấp công nghệ về công nghệ, trang thiết bị cho các DNNVV, hỗ trợ đánh giá lựa chọn công nghệ.

- Nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ của DNNVV qua các chương trình hỗ trợ áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO và các tiêu chuẩn quốc tế khác.

- Hỗ trợ các DNNVV thực hiện đăng ký và bảo hộ, chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ đối với các sản phẩm dịch vụ

- Chính phủ nên khuyến khích, hỗ trợ thành lập các viện nghiên cứu để giúp DNNVV đưa và sản xuất, phát triển sản phẩm mới, sản phẩm công nghiệp cao, khởi nghiệp, thương mại hóa các kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ của các cơ sở nghiên cứu.

- Thứ tư, cung cấp thông tin về thị trường, khoa học công nghệ, giới thiệu sản phẩm của doanh nghiệp ra thị trường nước ngoài. Để có thể tham gia vào thị trừờng quốc tế, điều quan trọng đối với các doanh nghiệp là tiếp cận với công nghệ hiện đại để tăng cường cạnh tranh và chất lượng sản phẩm trong nước cũng như xuất khẩu. Hiện nay các DNNVV Việt Nam đang rất hạn chế trong lĩnh vực này, do vậy việc đẩy mạnh hoạt động của các trung tâm tư vấn nhằm hỗ trợ cho DNNVV trong việc nắm bắt được thông tin về thị trường, khoa học công nghệ mới, môi giới giới thiệu sản phẩm của doanh nghiệp ra nước ngoài là rất cần thiết và không thể thiếu được vì


DNNVV với vốn liếng ít ỏi thì việc tự mình giải quyết các nội dung trên là rất khó khăn.

3.3.2. Kiến nghị đối với Ngân hàng nhà nước

- NHNN xây dựng các chính sách cho vay cụ thể với DNNVV

- NHNN ra soát lại các quy định để sửa đổi các quy định không còn phù hợp với tình hình thực tế, đưa ra các quy định mới điều chỉnh các quan hệ giữa ngân hàng và doanh nghiệp nhằm hướng dẫn xử lý các quan hệ này một cách thống nhất.

- Quy định các chính sách tài chính tiền tệ như: lãi suất cơ bản, lãi suất vay qua đêm, tỷ giá ngoại tệ, … một cách hợp lý nhằm khuyến khích và tạo điều kiện cho DNNVV phát triển.

- Thực hiện tham mưu cho chính phủ, trực tiếp hướng dẫn chỉ đạo các NHTM thực hiện chính sách hỗ trợ DNNVV, tạo điều kiện cho DNNVV tiếp cận được nguồn vốn ngân hàng nhanh chóng hơn.

- Có cơ chế hỗ trợ cho các DNNVV thiếu TSĐB. Vì mỗi lần doanh nghiệp tới ngân hàng vay, đều bị từ chối, với lý do doanh nghiệp không có tài sản thế chấp. Nhiều doanh nghiệp mới khởi nghiệp, lấy đâu ra tài sản thế chấp. Do đó, NHNN và Hiệp hội ngân hàng phối hợp với các quỹ hỗ trợ doanh nghiệp để tạo điều kiện cho doanh nghiệp vay vốn thuận tiện hơn, Các quỹ này phải đứng ra bảo lãnh cho doanh nghiệp vay vốn.

3.3.3. Kiến nghị với Maritimebank

Để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh và uy tín của ngân hàng trên thị trường, ngân hàng cần tập trung cho các đối tượng khách hàng chiến lược sau:

Chiến lược ngành hàng

Việc cấp tín dụng của Maritimebank cho các DNNVV trong thời gian qua chỉ tập trung vào những khách hàng là doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thương mại, dịch vụ ở những thành phố lớn. Điều này sẽ làm giảm dư nợ cho vay của ngân hàng, giảm quy mô cho vay cũng như thị trường khách hàng của ngân hàng. Maritimebank cũng cần xem xét đến các ngành hàng thuộc lĩnh vực công nghiệp, thương mại, dịch vụ, nông nghiệp then chốt và quan trọng trong nền kinh tế. Cụ thể:


- Các ngành công nghiệp sản xuất chế biến hàng xuất khẩu, các ngành công thương nghiệp nhập khẩu tư liệu sản xuất và dược phẩm y tế.

- Các ngành công nghiệp năng lượng, điện tử viễn thông.

- Các ngành công nghiệp, dịch vụ ở khu đô thị mang tính chất độc quyền mà ít bị cạnh tranh.

- Hạn chế khoản đầu tư có mục đích kinh doanh, đầu cơ bất động sản, các ngành có xu hướng bão hòa, kém cạnh tranh trong quá trình hội nhập kinh tế.

Chiến lược khách hàng

- Hiện nay, Maritimebank chưa có định hướng cụ thể trong cho vay đối với các doanh nghiệp vay vốn trung dài hạn để hình thành tài sản cố định phục vụ cho sản xuất kinh doanh. Thời gian tới, Maritimebank cần có kế hoạch triển khai ngay, nhằm đáp ứng nhu cầu của nhiều DNNVV muốn mở rộng hoạt động kinh doanh đồng thời sẽ mang lại thu nhập cao hơn khi sử dụng vốn trung dài hạn cho vay khách hàng DNNVV.

- Điều kiện cấp tín dụng không phân biệt đối với các khách hàng có hình thức sở hữu khác nhau. Chi nhánh thực hiện chế độ cập nhật, lưu trữ thông tin khách hàng, thường xuyên đánh giá chất lượng tín dụng của khách hàng để chọn lọc khách hàng tốt, hạn chế phát triển khách hàng có kết quả xếp hạng tín dụng thấp (rủi ro tín dụng cao) hoặc không phù hợp định hướng chiến lược của ngân hàng.

Chiến lược thị trường

- Maritimebank luôn có điều tra tổng thể để có thể cụ thể hóa những yếu tố cơ bản như: giới hạn cho vay đối với những ngành nghề khác nhau, quy mô, địa bàn đầu tư, danh mục đầu tư….. Để từ đó có thể định hướng được hoạt động kinh doanh và hạn chế được rủi ro ngân hàng.

- Trong quá trình cấp tín dụng, ngân hàng phải căn cứ vào các điều kiện cấp tín dụng theo các quy định hiện hành nhưng phải quán triệt quan điểm nâng cao tiêu chuẩn chất lượng tín dụng trong các điều kiện cấp tín dụng.

- Việc thẩm định và quyết đinh cấp tín dụng phải được dựa trên cơ sở phân tích tình hình khách hàng một cách toàn diện (về tính pháp lý, nhân thân lai lịch khách


hàng, quá trình hoạt động, trình độ quản lý, tình hình tài chính và hoạt động kinh doanh, tính khả thi của phương án kinh doanh, tài sản đảm bảo và các điều kiện khác) chứ không chỉ dựa vào tài sản đảm bảo của khách hàng để cấp tín dụng.

- Muốn thu hút được nhiều khách hàng đến quan hệ vay vốn với mình thì một vấn đề quan trọng là chi nhánh không được thỏa mãn với các hình thức cấp tín dụng hiện có mà mình đang áp dụng. Hiện nay Maritimebank chỉ chủ yếu cho vay có tỷ lệ đảm bảo bằng tài sản cao mà ít quan tâm tới hình thức khác. Vì vậy cần thiết phải tìm kiếm các hình thức tín dụng mới để áp dụng thuận tiện đối với đặc điểm của các DNNVV ngoài các hình thức cấp tín dụng chủ yếu mà ngân hàng đang thực hiện như:

- Cho vay chiết khấu: việc mua bán chịu và sử dụng vốn lẫn nhau giữa các DNNVV là phổ biến. Việc sử dụng hình thức tín dụng chiết khấu thương phiếu có ưu điểm nổi bật như: khả năng xảy ra rủi ro đối với hình thức tín dụng này là nhỏ nhất so với các hình thức tín dụng khác. Khi cần vốn ngân hàng có thể xin tái chiết khấu các thương phiếu, chứng từ có giá tại NHNN để bổ sung nguồn vốn thanh toán, nguồn vốn kinh doanh….

- Trong thời gian tới ngân hàng cần nhanh chóng nghiên cứu xây dựng quy trình cho vay chiết khấu thương phiếu, hối phiếu, các giấy tờ có giá khác.

Khách hàng mục tiêu của Maritimebank là DNNVV nhưng chính sách tín dụng của Maritimebank lại có phần phân biệt đối xử giữa các DNNVV thuộc khối quốc doanh và các DNNVV ngoài quốc doanh, biểu hiện là dư nợ DNNVV thuộc khu vực nhà nước rất ít chỉ chiếm từ 10%-20%. Mặc dù các doanh nghiệp này có sự bảo trợ của nhà nước nhưng không hẳn doanh nghiệp nào làm ăn cũng không tốt, các doanh nghiệp này lại thường kinh doanh những ngành nghề then chốt nên ngày càng phát triển. Vì vậy, Maritimebank nên xây dựng cho mình một chính sách cho vay phù hợp với đặc điểm của từng loại hình doanh nghiệp, phù hợp với từng ngành nghề kinh doanh. Quy mô doanh nghiệp để khai thác tối đa thị thường, tăng dư nợ cho vay, tăng lợi nhuận của ngân hàng.

Xem tất cả 104 trang.

Ngày đăng: 13/10/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí