chất). Các nguồn lực này liên quan đến khả năng của hệ thống công nghệ thông tin của ngân hàng trong việc kiểm soát toàn bộ danh mục, phân tích báo cáo rủi ro một cách kịp thời, cũng như khả năng của nguồn lực trong việc xử lý các nghiệp vụ thông qua các công đoạn của quy trình tín dụng một cách kịp thời và hiệu quả.
Ngân hàng chỉ tiến hành các hình thức cấp tín dụng có rủi ro cao hơn khi ngân hàng đã sẵn sàng tiếp nhận các rủi ro đó và có đủ kỹ năng, trình độ, hệ thống và nhân sự để cung cấp, quản lý và giám sát những khoản tín dụng này. Một khung pháp lý có tính tương hỗ sẽ có lợi cho người sử dụng những sản phẩm “có rủi ro cao hơn” và tạo điều kiện cho việc thu hồi trong trường hợp xảy ra vi phạm hợp đồng.
- Mức độ tập trung của danh mục tín dụng
Mức độ tập trung trong danh mục tín dụng theo các đặc thù riêng trực tiếp ảnh hưởng đến rủi ro của danh mục tín dụng. Các nhân tố ảnh hưởng tiêu cực đến các khoản cấp tín dụng có một đặc điểm nào đó trong danh mục tín dụng có khả năng gây nên thất thoát trầm trọng hơn nếu ngân hàng có mức độ tập trung cao và các khoản cấp tín dụng có đặc điểm này.
Ngân hàng sẽ hạn chế rủi ro tập trung trong danh mục tín dụng bằng cách thường xuyên đánh giá rủi ro trong từng thị trường, trong từng ngành, từng vị trí địa lý, sản phẩm và hình thức bảo đảm, lại tiền tệ và hình thức đáo hạn, từ đó đảm bảo duy trì một danh mục tín dụng đa dạng hóa.
Bước 2: Đánh giá, đo lường
Ngân hàng thương mại phải xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng khách hàng theo quy định của Ngân hàng Nhà nước để đánh giá khả năng thực hiện các nghĩa vụ trả nợ của từng khách hàng. Các quy trình đo lường rủi ro tín dụng phải được quy định bằng văn bản do các cấp có thẩm quyền của Ngân hàng thương mại ban hành.
Đánh giá rủi ro nhằm làm nổi bật những thay đổi về giá trị nợ quá hạn để phân tích sâu hơn. Làm nổi bật rủi ro tín dụng do các khoản nợ quá hạn. Cho thấy sự giảm sút về chất lượng của danh mục tín dụng qua thay đổi cơ cấu của từng loại rủi ro.
o Các khoản vay phải gia hạn;
Có thể bạn quan tâm!
- Quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần An Bình - 1
- Quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần An Bình - 2
- Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Tại Các Ngân Hàng Thương Mại
- Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng
- Bài Học Đối Với Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần An Bình
- Thực Trạng Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng
Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.
o Các khoản nợ xấu (Phân loại theo quy định của Ngân hàng nhà nước);
o Số dư thuần chịu rủi ro = dư nợ còn tồn – giá trị tài sản bảo đảm;
o Tóm tắt đánh giá của hệ thống chấm điểm tín dụng và thay đổi giữa các xếp hạng trong một kỳ;
o Kiểm tra tín dụng độc lập.
Bước 3: Kiểm soát
Ngân hàng thương mại phải theo dõi, kiểm soát rủi ro tín dụng đối với từng khoản cấp tín dụng và toàn bộ danh mục cấp tín dụng. Ngân hàng thương mại phải có hệ thống theo dõi, kiểm soát chất lượng của danh mục tín dụng hàng ngày và thực hiện các biện pháp xử lý khi chất lượng tín dụng bị suy giảm gồm:
o Theo dõi kết quả phân loại nợ của khoản cấp tín dụng;
o Đánh giá mức độ đầy đủ của dự phòng rủi ro theo quy định của Ngân hàng Nhà nước;
o So sánh mức rủi ro tín dụng thực tế với giới hạn, hạn mức cấp tín dụng của quy định pháp luật và giới hạn, hạn mức cấp tín dụng do Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên, ngân hàng mẹ phê duyệt.
Các quy trình theo dõi và kiểm soát rủi ro tín dụng phải quy định bằng văn bản do các cấp có thẩm quyền của Ngân hàng thương mại phê duyệt, tối thiểu bao gồm các nội dung sau:
o Vai trò và trách nhiệm của các cá nhân, bộ phận thực hiện theo dõi, kiểm soát rủi ro tín dụng;
o Quy trình thực hiện phân loại nợ đối với các khoản cấp tín dụng theo quy định của Ngân hàng nhà nước [7], [24] và các quy định của Ngân hàng thương mại.
o Quy trình đánh giá và các phương pháp phân tích đối với từng khoản cấp tín dụng và toàn bộ danh mục cấp tín dụng;
o Quy trình xác định các suy giảm chất lượng tín dụng của từng khoản cấp tín dụng và danh mục cấp tín dụng;
o Tần suất thực hiện việc theo dõi rủi ro tín dụng;
o Tần số tiếp xúc tại chỗ với khách hàng để thu thập thông tin phục vụ cho việc theo dõi kiểm soát rủi ro tín dụng;
o Giá trị của tài sản bảo đảm: Kiểm tra định kỳ giá trị của tài sản bảo đảm và đánh giá lại ngay giá trị của tài sản đảm bảo khi có dấu hiệu sụt giảm giá trị của tài sản đảm bảo đó;
o Quy trình cảnh báo sớm khi có dấu hiệu chất lượng tín dụng bị suy giảm hoặc mức độ rủi ro tăng lên. Các trường hợp cảnh báo sớm phải được thông báo ngay cho tất cả các bộ phận có liên quan của Ngân hàng thương mại và tiến hành ngay việc rà soát, đánh giá lại chất lượng tín dụng và mức độ rủi ro tín dụng.
Tùy theo quy mô, mức độ phức tạp của hoạt động cấp tín dụng, Ngân hàng thương mại quyết định cơ cấu tổ chức của bộ phận thực hiện theo dõi và kiểm soát rủi ro tín dụng
1.2.3.2 Công cụ quản trị rủi ro tín dụng
Công cụ sử dụng để quản trị rủi ro tín dụng bao gồm:
- Chính sách tín dụng:
Hoạt động tín dụng ngân hàng dựa trên một chính sách tín dụng phù hợp, thống nhất sẽ mang lại hiệu quả cao hơn, giúp ngân hàng dễ dàng hơn trong việc đạt được mục tiêu của mình trong công tác cấp tín dụng cho khách hàng.
Chính sách tín dụng phục vụ cho mục tiêu kinh doanh của ngân hàng nhằm mang lại hiệu quả kinh doanh thông qua việc tăng trưởng nguồn vốn, tăng trưởng tín dụng một cách bền vững, phòng ngừa và hạn chế tới thấp nhất rủi ro trong hoạt động tín dụng. Chính sách tín dụng càng quy định cụ thể thì càng dễ thực hiện, hạn chế tối đa sự vận dụng, hiểu sai lệch, tạo kẽ hở trong cho vay.
- Mô hình đánh giá rủi ro tín dụng:
Để quản trị và phòng ngừa rủi ro tín dụng, các ngân hàng thương mại áp dụng nhiều mô hình khác nhau. Việc áp dụng các mô hình này phải phù hợp với tính chất và quy mô cũng như năng lực kinh doanh của ngân hàng. Thông thường các Ngân hàng thương mại sử dụng cả hai mô hình là mô hình định tính và mô hình định lượng.
Đối với mô hình định tính có thể thấy ở các ngân hàng hiện tại như trong các công tác: (1) Xây dựng hành lang pháp lý cho hoạt động tín dụng ngân hàng; (2) Quá
trình đánh giá khác hàng từ khi tiếp nhận hồ sơ vay vốn cho đến khi khách hàng hoàn tất trả nợ gốc và lãi của Ngân hàng.
Hiện nay, hành lang pháp lý cho hoạt động tín dụng đều được các ngân hàng thương mại xây dựng tương đối đầy đủ và chặt chẽ. Các Ngân hàng thương mại đều có các quy chế, quy định chi tiết về hoạt động cho vay, đảm bảo tiền vay, phân cấp hạn mức tín dụng, danh mục tín dụng theo ngành, phân loại nợ,… Ngoài ra, với mỗi sản phẩm cụ thể, các ngân hàng đều ban hành các văn bản hướng dẫn triển khai chi tiết nên có thể nói các Ngân hàng đã hạn chế được nhiều rủi ro khi đã xây dựng được hành lang pháp lý cho hoạt động tín dụng.
Về quá trình đánh giá khách hàng từ khi tiếp nhận hồ sơ cho đến khi khách hàng hoàn tất trả nợ gốc và lãi có thể đưa ra các nội dung cơ bản sau:
o Đánh giá khách hàng khi tiếp nhận nhu cầu vay: Về cơ bản thì cán bộ tín dụng cần trả lời được 3 câu hỏi: (1) Khách hàng vay có tin cậy không và mình đã biết gì về họ? (2) Khách hàng vay có khả năng trả nợ vay mà không cần đến một sức ép nào không? (3) Trường hợp khách hàng vay không trả được nợ gốc và lãi thì ngân hàng có thể thu hồi nợ như thế nào để hạn chế rủi ro ở mức tối đa?
o Thăm hỏi khách hàng: Đây là một việc giúp Ngân hàng nắm được triển vọng hoạt động của khách hàng. Cụ thể Ngân hàng biết được chất lượng cơ sở vật chất của khách hàng, chất lượng lãnh đạo, trình độ quản lý, dấu hiệu hoạt động quá tải, quy mô và năng lực cán bộ nhân viên hay tính trung thực của khách hàng trong việc minh bạch hóa hoạt động kinh doanh.
o Thực hiện kiểm tra tại chỗ: Việc này là rất cần thiết, nhất là đối với khách hàng có cơ sở hoạt động tại nhiều địa điểm khác nhau. Ngoài ra, kiểm tra tại chỗ còn giúp các ngân hàng tránh bị gian lận đối với những nội dung mà kiểm toán độc lập loại trừ khi thực hiện kiểm toán cho khách hàng.
o Quản lý và theo dõi khoản vay: Sau khi giải ngân, ngân hàng cần thực hiện quản lý và theo dõi khoản vay. Công việc này bao gồm theo dõi thông tin về khách hàng vay, tình hình tài chính, tình trạng tài sản thế chấp, … để biết chắc rằng khách hàng vẫn đủ năng lực tài chính và tài sản thế chấp vẫn đủ giá trị bảo đảm cho khoản
vay. Một số dấu hiệu khả nghi cho thấy những thay đổi của khách hàng: Gửi báo cáo muộn; giảm đột ngột tài sản có; chủ nợ khác đăng ký quyền nắm giữ tài sản thế chấp; Tăng công nợ vượt quá tốc độ tăng doanh số bán hàng; Doanh số bán hàng đột nhiên tăng hoặc là không có gì; khách hàng mới đến ồ ạt, tăng bất thường trong công nợ phải trả; khó liên lạc được với khách hàng; hàng trong kho tăng đột biến; kéo dài thời gian tính khấu hao tài sản cố định; giảm lương chậm nộp thuế; Cá nhân thay đổi thói quen chi tiêu theo chiều hướng tiết kiệm…; Thay đổi cơ cấu nhân sự trong hệ thống quản trị; Thấu chi liên tục; Giá cổ phiếu thay đổi bất lợi.
o Thực hiện xác minh chéo: Ngân hàng xác minh công nợ bằng cách lựa chọn một số ngẫu nhiên rồi thực hiện xác minh chéo sự tồn tại cũng như giá trị của chúng. Để làm được việc này, đại diện ngân hàng sẽ liên lạc với bên nợ của khách hàng để xác nhận số nợ thực tế (theo nguyên tắc không lộ thông tin về khoản vay của khách hàng tại ngân hàng). Tần suất thực hiện xác minh chéo tùy thuộc vào tình hình tài chính của khách hàng vay, những thay đổi trong vấn đề tài chính cũng như các điều kiện kinh tế xung quanh khách hàng.
Mô hình định tính về rủi ro tín dụng – Mô hình 6C
(Character) Tư cách người vay: Cán bộ tín dụng phải chắc chắn người vay có mục đích tín dụng rõ ràng và có thiện chí nghiêm chỉnh trả nợ khi đến hạn.
(Capacity) Năng lực người vay: Người đi vay phải có năng lực pháp luật, năng lực hành vi dân sự, người vay phải là đại diện hợp pháp của doanh nghiệp.
(Cashflow): Xác định nguồn trả nợ của khách hàng vay.
(Collateral): Bảo đảm tiền vay: Là nguồn thứ hai có thể dụng để trả nợ vay cho ngân hàng.
(Conditions): Các điều kiện được ngân hàng quy định tùy theo chính sách tín dụng từng thời kỳ.
(Control): Kiểm soát: Đánh giá những ảnh hưởng do sự thay đổi của pháp luật, quy chế hoạt động, khả năng khách hàng đáp ứng các tiêu chuẩn của ngân hàng.
Việc sử dụng mô hình này là không phức tạp nhưng nó phụ thuộc vào mức độ chính xác của nguồn thông tin thu thập, khả năng dự báo cũng như trình độ phân tích của cán bộ tín dụng.
Đối với mô hình định lượng thì có thể sử dụng chấm điểm tín dụng để lượng hóa rủi ro của người vay. Điều này cho phép xử lý nhanh chóng số lượng lớn các khoản cho vay một cách khách quan, tránh phụ thuộc vào năng lực trình độ của cán bộ tín dụng ngân hàng.
Bộ xếp hạng tín dụng doanh nghiệp đầy đủ thường có các phần sau:
o Chấm điểm đối với ngành hàng sản xuất chính của doanh nghiệp và ngành hàng của chính khoản vay.
o Chấm điểm cho các chỉ tiêu phi tài chính doanh nghiệp.
o Chấm điểm cho các chỉ tiêu tài chính doanh nghiệp.
o Chấm điểm về lịch sử quan hệ tín dụng của doanh nghiệp tại ngân hàng mình và ngân hàng khác.
o Chấm điểm đối với tiềm năng lợi ích mà doanh nghiệp có thể mang lại cho ngân hàng.
Bộ xếp hạng tín dụng cá nhân đầy đủ thường có các phần sau:
o Chấm điểm cho tiêu chí về thân nhân khách hàng.
o Chấm điểm cho tiêu chí về nguồn thu, chi tiêu khách hàng.
o Chấm điểm về tài sản bảo đảm.
Một số chỉ tiêu về định lượng theo quy định của Ngân hàng nhà nước:
Do hoạt động tín dụng là một trong những nghiệp vụ chính và chủ lực đối với phần lớn các ngân hàng thương mại nên Ngân hàng Nhà nước rất quan tâm và đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn thực hiện nhằm hạn chế rủi ro tín dụng:
o Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu; giới hạn tín dụng đối với khách hàng; tỷ lệ về khả năng chi trả; tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung dài hạn; giới hạn góp vốn, mua cổ phần.
o Phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro.
Mô hình điểm số Z
Đây là mô hình do E.I. Altman dùng để cho điểm tín dụng đối với các doanh nghiệp vay vốn. Đại lượng Z dùng làm thước đo tổng hợp để phân loại RRTD đối với người đi vay và phụ thuộc vào:
o Trị số của các chỉ số tài chính của người vay.
o Tầm quan trọng của các chỉ số này trong việc xác định xác suất vỡ nợ của người vay trong quá khứ.
Từ đó Altman đã xây dựng mô hình điểm như sau:
Z = 1,2X1 + 1,4X2 + 3,3X3 + 0,6X4 + 1,0X5 Trong đó:
X1 = Hệ số vốn lưu động / Tổng tài sản
X2 = Hệ số lãi chưa phân phối / Tổng tài sản
X3 = Hệ số lợi nhuận trước thuế và lãi / Tổng tài sản
X4 = Hệ số giá trị thị trường của tổng vốn sở hữu / Giá trị hạch toán của nợ X5 = Hệ số doanh thu / Tổng tài sản
Trị số Z càng cao, thì xác suất vỡ nợ của người đi vay càng thấp. Ngược lại, khi trị số Z thấp hoặc là một số âm thì đó là căn cứ xếp khách hàng vào nhóm có nguy cơ vỡ nợ cao.
Z<1.8: Khách hàng có khả năng rủi ro cao
1.8 < Z < 3: Không xác định được
3 < Z : Khách hàng không có khả năng vỡ nợ.
Theo mô hình cho điểm Z của Altman, bất cứ công ty nào có điểm số thấp hơn 1,81 phải được xếp vào nhóm có nguy cơ rủi ro tín dụng cao
Ưu điểm của mô hình: Kỷ luật đo lường rủi ro tín dụng tương đối đơn giản Nhược điểm của mô hình:
o Mô hình này chỉ cho phép phân loại nhóm khách hàng vay có rủi ro và không có rủi ro. Tuy nhiên trong thực tế mức độ rủi ro tín dụng tiềm năng của khách hàng là khác nhau từ mức thấp đến mức cao do đó mức độ phân chia chưa chi tiết.
o Không có lý do thuyết phục để chứng minh rằng các thông số phản ánh tầm quan trọng không phải là bất biến, đặc biệt khi các điều kiện kinh doanh cũng như điều kiện thị trường tài chính đang thay đổi liên tục. Mô hình không tính đến một số nhân
tố khó định lượng nhưng có thể đóng vai trò quan trọng ảnh hưởng đến mức độ của các khoản vay (Danh tiếng khách hàng, mối quan hệ lâu dài giữa ngân hàng và khách hàng hay các yếu tố vĩ mô như sự biến động của chu kỳ kinh tế)
Mô hình điểm tính số tín dụng tiêu dùng:
Ngoài mô hình điểm số Z, nhiều ngân hàng còn áp dụng mô hình cho điểm để xử lý đơn xin vay của người tiêu dùng như: Mua xe hơi, trang thiết bị gia đình,… Các yếu tố quan trọng trong mô hình cho điểm tín dụng bao gồm: hệ số tín dụng, tuổi đời, trạng thái tài sản, số người phụ thuộc, sở hữu nhà, thu nhập, điện thoại cô định, tài khoản cá nhân, thời gian làm việc. Mô hình này thường sử dụng 7-12 hạng mục, mỗi hạng mục cho điểm 1-10.
o Ưu điểm: Mô hình loại bỏ được sự phán xét chủ động trong quá trình cho vay và giảm đáng kể thời gian ra quyết định tín dụng.
o Nhược điểm: Mô hình không thể tự điều chỉnh một cách nhanh chóng để thích ứng với những thay đổi trong nền kinh tế và cuộc sống gia đình.
Theo Basel II thì các ngân hàng có thể sử dụng các mô hình dựa trên hệ thống dữ liệu nội bộ để xác định khả năng tổn thất tín dụng. Đây là phương pháp ước tính tổn thất tín dụng dựa trên hệ thống cơ sở dữ liệu đánh giá nội bộ - IRB (Internal Ratings Based approach). Ngân hàng sẽ xác định các biến PD (Probability of Default)
– Xác suất khách hàng không trả được nợ; LGD (loss Given default) - Tỷ trọng tổn thất ước tính; EAD (exposure at Default) - Tổng dư nợ của khách hàng tại thời điểm khách hàng không trả được nợ; EL: (Exected Loss) - Tổn thất có thể ước tính. Trong đó: EL = PD x EAD x LGD.
Việc sử dụng IRB là rất khoa học và hiệu quả, tuy nhiên việc tính toán bất kỳ chỉ số này trong 3 chỉ số trên cũng là rất phức tạp, đòi hỏi ngân hàng phải có cơ sở dữ liệu đầy đủ, phải được đầu tư hệ thống công nghệ thông tin đáp ứng nhu cầu truy xuất dữ liệu một cách nhanh chóng, kịp thời.
- Quy trình tín dụng:
Quy trình tín dụng là bảng tổng hợp mô tả công việc của ngân hàng từ khi tiếp nhận hồ sơ vay vốn của một khách hàng cho đến khi quyết định cho vay, giải ngân, thu