Tính Tất Yếu Khách Quan Của Tín Dụng Ngân Hàng Trong Nền Kinh Tế Thị Trường


Hoạt động ngân quỹ: hoạt động này phản ánh các khoản vốn của ngân hàng được dùng vào mục đích nhằm đảm bảo an toàn về khả năng thanh toán và thực hiện các quy đinh về dự trữ bắt buộc. Ngân quỹ là tài sản có tính thanh khoản cao và tính sinh lời thấp, chủ yếu đáp ứng chi trả thường xuyên của ngân hàng.

Hoạt động tín dụng: đây là hoạt động cơ bản hàng đầu của ngân hàng trong đó ngân hàng thoả thuận vói khách hàng (qua các hợp đồng túi dụng) để khách hàng sử dụng một khoản tiền nhất đinh, có lãi suất và phải hoàn trả. Hoạt động tín dụng mang lại lợi tức nhiều nhất cho ngân hàng nhưng cũng đồng thòi tiềm ẩn các rủi ro rất lớn cho ngân hàng do vậy ngân hàng cần có nhiều sản phẩm tín dụng khác nhau để cung ứng cho khách hàng và phải sử dụng kết hợp nhiều biện pháp để ngăn ngừa rủi ro.

Hoạt động đầu tư tài chính: ngoài hoạt động chính là cho vay thì các ngân hàng sử dụng vốn của mình tham gia vào các hoạt động đầu tư tài chính

như: góp vốn liên doanh, kinh doanh và đầu tư chứng khoán . . . . Các hoạt

động này diễn ra trên thị trường tài chính, không những giúp ngân hàng thu được nguồn lợi nhuận cao và ổn định mà còn giúp cho ngân hàng đa dạng hoá danh mục đầu tư.

Hoạt động dịch vụ: Hoạt động dịch vụ ngân hàng rất đa dạng bao gồm

: cung ứng các phương tiện thanh toán trong nước và quốc tế, dịch vụ thu hộ, chi hộ, và thực hiện các thanh toán khác do Pháp luật quy đinh.

Ngoài những hoạt động trên, ngân hàng còn thực hiện các hoạt động khác như: dịch vụ đại lý và uỷ thác, dịch vụ cho thuê tủ két, bảo quản hiện vật quý và giấy tờ có giá, dịch vụ chứng khoán, dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ tư

vấn tài chính tiền tệ....

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 341 trang tài liệu này.

2.12.Tín dụng‌

Tín dụng là quan hệ vay mượn, quan hệ sử dụng vốn lẫn nhau giữa người đi vay và người cho vay dựa hên nguyên tắc có hoàn trả cả vốn gốc và

Quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Gia Lâm - Hà Nội - 3


lãi, đáp ứng các nhu cầu của chủ thể tín dụng.

TÚI dụng là phạm trù của kinh tế hàng hoá. Quá trình ra đời và tồn tại của tín dụng gắn liền vói quá trình ra đời và tồn tại của kinh tế hàng hoá.

Thuật ngữ túi dụng được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Tuỳ theo từng bối cảnh cụ thể mà thuật ngữ túi dụng có nội dung riêng. Trong quan hệ tài chính, tín dụng có thể hiểu theo nghĩa sau:

-Trên góc độ chuyển dịch quỹ cho vay từ chủ thể thặng dư tiết kiệm sang chủ thể thăng dư thiếu hụt thì tín dụng được coi là phưong pháp chuyển dịch quỹ từ ngưòi cho vay sang người đi vay.

-Trong quan hệ tài chính cụ thể, túi dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở có hoàn trả giữa hai chủ thể.

-TÚI dụng còn có nghĩa là một số chính cung cấp cho khách hàng.

tiền cho vay mà các dinh chế

tài


vay.

Trong một số ngữ cảnh thuật ngữ tín dụng đồng nghĩa vói thuật ngữ cho


Mặc dù túi dụng có một quá trình tồn tại và phát triển lâu dài qua nhiều

hình thái kinh tế xã hội khác nhau, song túi dụng đều có những tính chất quan trọng sau:

-TÚI dụng trước hết chỉ làm thay đổi quyền sử dụng giá trị vốn, chứ không làm thay đổi quyền sở hữu vốn.

-Tín dụng bao giờ cũng có thời hạn và phải được hoàn trả.

-Giá tri của tín dụng không chỉ được bảo tồn mà còn được nâng lên nhờ lợi tức tín dụng.

2.13.Tín dụng ngân hàng‌

2.1.31.Khái niệm tín dụng ngân hàng

Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa các ngân hàng (bên cho vay) với các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, các tổ chức và cá nhân (bên đi vay), dưới hình thức ngân hàng (bên cho vay) đứng ra huy động vốn bằng tiền


và cấp tín dụng (cho vay) cho bên đi vay sử dụng ừong một khoảng thời gian nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện số vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.

Tín dụng ngân hàng là hình thức chủ yếu, chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế.

TÚI dụng ngân hàng ra đời và phát triển cùng vói sự ra đời và phát triển của hệ thống ngân hàng, khác với túi dụng thưong mại, túi dụng ngân hàng là hình thức túi dụng chuyên nghiệp hoạt động của nó hết sức đa dạng và phong phú.

2.1.32.Tính tất yếu khách quan của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường

Tính tất yếu khách quan của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường thể hiện ở các khía canh sau:

Thứ nhất: do mâu thuẫn của quá trình tuần hoàn vốn tín dụng trong xã

hội

Vốn đóng vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh, tuy

nhiên không phải các chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế lúc nào cũng đủ

vốn để

thực hiện các kế

hoạch kinh doanh của mình, trong khi đó lại có

những chủ thể có những nguồn tiền tạm thòi nhàn rỗi. Như vậy, trong nền kinh tế có những noi tạm thời thừa vốn và những noi tạm thời thiếu vốn, điều này xuất phát từ sự không ăn khớp và bằng phẳng giữa thu nhập và chi tiêu về thời gian cũng như khối lượng. Sự ra đòi của tín dụng ngân hàng là nhằm giải quyết mâu thuẫn trên.

Thứ hai: do yêu cầu của chế độ hạch toán kinh tế

Nguồn vốn tín dụng ngân hàng đã tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể tiến hành sản xuất kinh doanh. Đó chính là điều kiện tốt để họ thực hiện chế độ hạch toán kinh tế.

Nguyên tắc của tín dụng ngân hàng là cả vốn gốc và lãi phải được hoàn trả sau một thòi gian nhất định. Điều đó là động cơ cho các chủ thể trong nền kinh tế sử dụng vốn tiết kiệm, hiệu quả, hạ giá thành sản phẩm và nâng cao mức lợi nhuận của mình để thực hiện nghĩa vụ với ngân hàng. Việc

ngân hàng kiểm soát hoạt động kinh tế của các chủ thể vay vốn túi dụng

ngân hàng đã thúc đẩy các chủ thể này quan tâm đến việc sử dụng vốn đúng mục đích và hiệu quả.

Thứ ba: do cơ chế tự chủ về tài chính

Hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường đòi hỏi các chủ thể kinh doanh phải tự chủ về tài chính. Cơ chế này buộc các chủ thể phải chủ

động trong việc cân đối các nguồn vốn để

thực hiện các kế

hoạch kinh

doanh. Với vai trò quan trọng bậc nhất là trung gian cung và cầu vốn, túi dụng ngân hàng là cầu nối điều hoà vốn giữa các chủ thể trong nền kinh tế.

2.2.RỦI RO TÍN DỤNG NGÂN HÀNG

2.2.1.Khái niệm rủi do tín dụng ngân hàng‌

Theo uỷ ban Basel (thuộc Ngân hàng Thanh toán quốc tế) thì: “rủi ro tín dụng là khả năng mà khách hàng vay hoặc bên đối tác không thực hiện được các nghĩa vụ của mình theo những điều khoản đã cam kết. Rủi ro thất thoát đối với một ngân hàng là sự vỡ nợ của người giao ước trong hợp đồng, trong đó sự vỡ nợ được xác định là bất kỳ sự vi phạm nghiêm trọng nào đối với nghĩa vụ hợp đồng khi hoàn trả nợ và lãi

Theo Quyết đinh 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22 tháng 04 năm 2005 của Thống đốc ngân hàng Nhà nước Việt Nam thì: “rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng là khả năng xẩy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc


không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết’.

Rủi ro tín dụng ngân hàng là một yếu tố gắn liền với hoạt động của ngân hàng và buộc ngân hàng phải nghĩ đến việc trích lập một khoản dự phòng để bù đắp khi có rủi ro xẩy ra. Thường rủi ro tín dụng ngân hàng được diễn tả bằng số nợ quá hạn trong tổng số dư nợ của ngân hàng: nợ quá hạn/ tổng dư nợ.

Trong đó nợ quá hạn bao gồm:

-Nợ quá hạn có khả năng thu hồi là những khoản nợ mà khách hàng vẫn có khả năng và ý muốn trả nợ nhưng không có khả năng trả nợ đúng hẹn do gặp những khó khăn tạm thời về tài chính. Đây là loại rủi ro sai hẹn và chỉ ảnh hưởng đến tính thanh khoản của ngân hàng.

-Nợ quá hạn không có khả năng thu hồi là những khoản nợ mà khách hàng không có khả năng trả nợ do kinh doanh thua lỗ, phá sản, thiên tai, hoả hoạn ... thậm chí do hành vi tham ô, lừa đảo của khách hàng. Đây là loại rủi ro mất vốn túi dụng hay rủi ro phá sản. Nếu rủi ro này xẩy ra càng nhiều thì ngân hàng có thể bị phá sản.

2.2.2.Đặc điểm của rủi ro tín dụng ngân hàng‌

* Rủi do tín dụng ngân hàng mang tính chất gián tiếp

Đặc điểm này xuất phát từ nguyên nhân là trong quan hệ túi dụng, ngân hàng chuyển giao quyền sử dụng vốn cho khách hàng trong một thời gian nhất định nên những thiệt hại, thất thoát về vốn xẩy ra trước hết là trong quá trình sử dụng vốn của khách hàng. Biểu hiện rõ ràng của đặc điểm này là trong thực tế, ngân hàng thường là biết sau cũng như không đầy đủ và chính xác những khó khăn, thất bại trong hoạt động kinh doanh của của khách hàng có thể gây ra rủi ro tín dụng.

Xuất phát từ đặc điểm này, biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro

tín dụng muốn hiệu quả cần tập trung nghiên cứu các thông tin về khách

hàng, thiết lập hệ thống thông tin theo dõi dấu hiệu rủi ro, xây dụng và đảm

bảo mối quan hệ mimh bạch giữa cán bộ tín dụng và khách hàng vay vốn.

*Rủi do tín dụng ngân hàng có tính chất đa dạng và phức tạp

Đây là đặc điểm tất yếu của rủi ro tín dụng do đặc trung ngân hàng là trung gian tài chính kinh doanh tiền tệ. Đặc điểm này cũng là hệ quả của đặc điểm thứ nhất vì mối liên hệ gián tiếp với rủi ro tín dụng khiến sự đa dạng và phức tạp của rủi ro tín dụng ngân hàng càng thể hiện rõ hơn.

Nhận thức và vận dụng quan điểm này, khi thực hiện phòng ngừa rủi ro cần áp dụng đồng bộ nhiều biện pháp, không chủ quan với bất cứ một dấu hiệu rủi ro nào để đưa ra biện pháp cho phù hợp.

*Rủi do tín dụng ngân hàng cổ tính tất yếu vì nó luôn luôn gắn liền với sự vận động của nền kinh tế thị trường

Trong nền kinh tế thị trường, người sản xuất kinh doanh không thể

biết trước được thị trường sẽ tiêu thụ sản phẩm của họ vói số lượng là bao nhiêu và giá cả như thế nào, vì vậy chỉ khi họ sản xuất xong và đưa sản phẩm vào thị trường tiêu thụ họ mới biết họ thành công hay thất bại. Nếu thành công họ sẽ trả nợ cho ngân hàng đúng hạn, nếu thất bại việc trả nợ sẽ khổ khăn và gây rủi ro cho ngân hàng cho vay. Do đó ngân hàng cần chủ động có các biện pháp tích hợp xử lý vấn đề thông tin không cân xứng để đối phó vói rủi ro.

2.2.3.Tác động và hậu quả của rủi ro tín dụng ngân hàng‌

*Tác động và hậu quả của rủi ro tín dụng ngân hàng đối với ngân hàng

Khi gặp rủi ro tín dụng tức là ngân hàng không thu được nợ lãi, một phần hoặc toàn bộ nợ gốc tiền vay, nhưng về phía ngân hàng phải có nghĩa vụ thanh toán toàn bộ gốc và lãi cho số tiền huy động từ các tầng lớp dân cư và các doanh nghiệp khác, điều này làm cho ngân hàng mất cân đối thu chi. Khi không thu được tiền nợ vay dẫn đến vòng quay vốn tín dụng giảm, mất cơ hội kinh doanh, chi phí tăng cao ngoài dự kiến, làm giảm hiệu quả kinh doanh của ngân hàng, nếu rủi ro lớn sẽ mất khả năng thanh khoản làm mất


lòng tin của người gửi tiền cũng như người vay và suy giảm tín nhiệm của ngân hàng trên thị trường tiền tệ quốc tế, gây khó khăn ừong quan hệ vay vốn nước ngoài, thiết lập quan hệ đại lý vói nước đó, hạn chế năng lực canh tranh. Hiệu quả kinh doanh thấp, ngân hàng không có tiền chi trả lương cho nhân viên, những người có năng lực tốt sẽ ròi khỏi ngân hàng làm cho ngân hàng càng khó khăn thêm.

* Tác động và hậu quả của rủi ro tín dụng ngân hàng đối với toàn bộ nền kinh tế

Hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng liên quan đến tất cả

các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội, đến tất cả các ngành, các thành

phần kinh tế. Trong hoạt động của ngân hàng nguồn thu nhập chủ yếu là từ tín dụng trong đó rủi ro lớn nhất là rủi ro tín dụng. Vì vậy, khi rủi ro túi dụng xẩy ra và trường hợp dẫn đến phá sản thì gây lên tâm lý hoang mang và mọi người sẽ ồ ạt đến rút tiền gửi tại các ngân hàng khác, sẽ gây nên tình trạng khó khăn cho hệ thống các ngân hàng thương mại do mất khả năng thanh toán. Ngân hàng phá sản ảnh hưởng đến tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và các tầng lớp dân cư, các doanh nghiệp không có tiền trả lương dẫn đến đời sống công nhân gặp nhiều khó khăn. Hơn nữa sự khủng hoảng của các ngân hàng ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ nền kinh tế, nó làm cho nền kinh tế bị suy thoái, giá cả tăng, sức mua giảm, thất nghiệp tăng, xã hội mất ổn định. Ngoài ra, rủi ro tín dụng cũng ảnh hưởng đến nền kinh tế

thế

giới, vì ngày nay nền kinh tế

mối quốc gia đều phụ thuộc ngày càng

nhiều vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Mặt khác, mối liên hệ tiền tệ, đầu tư giữa các nước phát triển rất nhanh nên rủi ro tín dụng tại một nước sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các nền kinh tế có liên quan.

Nói tóm lại, rủi ro tín dụng ngân hàng xẩy ra ở các mức độ khác nhau, nhẹ nhất là ngân hàng bị giảm lợi nhuận khi không thu hồi được nợ cho vay. Nặng hơn là ngân hàng không thu hồi được nợ gốc, hoặc nợ gốc và lãi dẫn

đến ngân hàng bị lố và mất vốn. Nếu tình trạng này kéo dài và không khắc phục được ngân hàng sẽ bị phá sản, gây ra hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng. Chính ví vậy đòi hỏi các nhà quản trị ngân hàng phải hết sức thận trọng và có những biện pháp hiệu quả nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng.

2.2.4.Nguyên nhân của rủi ro tín dụng ngân hàng‌

Rủi ro tín dụng ngân hàng xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có một số nguyên nhân chủ yếu sau:

* Nguyên nhân từ phía khách hàng

Các nguyên nhân dẫn đến khách hàng vay vốn không trả được nợ cho ngân hàng có thể chia làm hai nhóm nguyên nhân:

+ Nguyên nhân khách quan: là nhũng tác động ngoài ý chí của khách hàng như: do thiên tai, hoả hoạn, do sự thay đổi của các chính sách quản lý kinh tế, điều chỉnh quy hoạch ngành, vùng, do sự thay đổi trong hành lang pháp lý, do sự biến động của thị trường trong và ngoài nước, do quan hệ cung cầu hàng hoá thay đổi.

+ Nguyên nhân chủ quan: là nguyên nhân xuất phát từ nội tại khách

hàng. Khách hàng có thể đem lại rủi ro cho ngân hàng khi

Vốn tự có tham gia vào sản xuất kinh doanh thấp hơn so vói nhu cầu về vốn kinh doanh. Trong tình huống này, buộc khách hàng phải đi huy động vốn. Nếu ngân hàng đáp ứng được phần vốn còn thiếu hụt này của khách hàng thì nguy cơ tiềm ẩn rủi ro đối vói ngân hàng sẽ tăng cao. Lý do là các khách hàng có xu hướng lao vào các hoạt động kinh doanh mạo hiểm hy vọng tìm kiếm lợi nhuận cao, bởi hầu hết vốn kinh doanh không phải là của họ, và điều này đồng nghĩa vói việc hầu hết mọi gánh nặng rủi ro ừong canh bạc mạo hiểm này được dồn hết vào vai các ngân hàng.

Năng lực điều hành của bộ máy lãnh đạo doanh nghiệp còn hạn chế, thiếu thông tin thị trường, và thông tin về các đối tác làm ảnh hưởng đến kế

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 06/09/2023