Các Loại Rủi Ro Tín Dụng Ngân Hàng


hoạch sản xuất kinh doanh. Một khi điều này xẩy ra sẽ khiến các ngân hàng phải đối mặt vói nguy cơ rủi ro cao khi cho các khách hàng này vay.

Công nghệ sản xuất kinh doanh lạc hậu, sản phẩm sản xuất ra không có tính canh tranh cao, điều này khiến hoạt động kinh doanh của khách hàng gặp nhiều khó khăn. Điều đó sẽ khiến ngân hàng phải đối mặt với rủi ro trong cho vay.

Đặc biệt khách hàng thiếu thiện chí trả nợ vay ngân hàng, khiến cho ngân hàng gặp khó khăn trong thu hồi nợ vay. Đây chính là loại rủi ro xuất phát từ đạo đức của người đi vay.

Các nguyên nhân này ngân hàng có thể xác đinh được thông qua quá trình thẩm đinh, tìm hiểu, nắm vững tình hình sản xuất kinh doanh cả trước, trong và sau, tìm hiểu mục đích tiền vay và hiệu quả của phương án cho vay của các đối tượng vay.

* Nguyên nhân từ phía ngân hàng

+ Nguyên nhân chủ quan: Ngân hàng không chấp hành nghiêm túc chế độ tín dụng và điều kiện cho vay, chính sách và quy trình cho vay chưa chặt chẽ, chưa có quy trình quản trị rủi ro hữu hiệu, chưa chú trọng đến phân tích khách hàng, xếp loại rủi ro túi dụng để tính toán điều kiện cho vay và khả năng trả nợ khách hàng vay. Đối vói cho vay doanh nghiệp nhỏ và cá nhân, việc cho vay chủ yếu dựa vào kinh nghiệm mà chưa áp dụng các công cụ chấm điểm túi dụng.

Kỹ thuật cấp túi dụng còn hạn chế, chưa đa dạng, việc xác định hạn mức tín dụng cho khách hàng còn quá đơn giản, thời hạn chưa phù hợp, chủ yếu là tín dụng trực tiếp, sản phẩm tín dụng chưa đa dạng.

Thiếu thông tin về khách hàng vay, thiếu thông tin tín dụng tin cậy, kịp thời chính xác để xem xét phân tích tín dụng trước khi cấp tín dụng.

Năng lực và phẩm chất đạo đức của một số cán bộ tín dụng chưa đủ tầm và vấn đề quản lý sử dụng đội ngũ cán bộ ngân hàng chưa thoả đáng.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 341 trang tài liệu này.

Hơn nữa chính sự đầu tư phát triển không đồng bộ giữa các khâu, các bộ phận trong bản thân ngân hàng cũng là nguyên nhân rủi ro tiềm ẩn rất lớn. Sự phát triển khập khiễng, không đồng bộ giữa hoạt động tín dụng và các sản phẩm dịch vụ đi kèm, chính điều này làm cho ngân hàng không nắm được tình hình hoạt động cũng như luồng tiền của khách hàng vay, không kịp thời phát hiện rủi ro, cũng như không đưa ra các giải pháp kịp thời để xử lý khi rủi ro xẩy ra.

+ Nguyên nhân khách quan-, do các quy định của pháp luật về quản trị tín dụng về khía canh: việc minh bạch thông tin, việc công bố thông tin tài chính, vấn đề kiểm toán, cũng như vấn đề quản lý thu nhập của người dân là một trong những nguyên nhân dẫn đến rủi ro trong hoạt động túi dụng ngân hàng ngoài khả năng kiểm soát của ngân hàng. Ngoài các nguyên nhân nói trên còn có những nguyên nhân khách quan khác từ phía các cơ quan quản lý Nhà nước trong việc giám sát cũng như tạo ra sự minh bạch trong thị trường tài chính, nhất là sự cung cấp kip thòi các thông tin kinh tế xã hội, cũng như do điều kiện lịch sử của đất nước, điều kiện kinh tế, trình độ kỹ thuật và mức độ đầu tư trong lĩnh vực khoa học công nghệ đã ảnh hưởng rất lớn đến hoạt

Quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Gia Lâm - Hà Nội - 4

động túi dụng cũng như làm gia tăng mức độ rủi ro trong ngân hàng.

* Nguyên nhân từ phía môi trường kinh doanh

lĩnh vực túi dụng

Môi trường kinh tế tác động manh đến hoạt động kinh doanh của các ngân hàng. Khi nền kinh tế đang tăng trưởng ổn định thì các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả và sẽ có nhiều khả năng trả nợ cho ngân hàng. Ngược lại, khi nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái, mất ổn đinh khiến các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong hoạt động, sản xuất bị đình trệ, sức mua bị giảm sút, hàng hoá bị ứ đọng. Điều này tất yếu ảnh hưởng đến khả năng trả nợ các khoản vay của ngân hàng.

Trong các lý thuyết kinh tế, để giải quyết một vấn đề nào đó thì trong


các mô hình kinh tế

người ta thường giả

đinh là thông tin hoàn hảo. Tuy

nhiên, trong thực tế

thì thông tin hoàn hảo là hầu như

không tồn tại, mà

thường là thông tin bất cân xứng. Thông tin bất cân xứng xẩy ra khi một bên đối tác nắm giữ thông tin còn bên khác thì không biết đích thực về thông tin ở một mức độ nào đó . Thông tin bất cân xứng cũng là một nguyên nhân không nhỏ trong rủi ro tín dụng ngân hàng, hoạt động tín dụng của ngân hàng là chuyển vốn từ người gửi tiền sang người vay tiền, toàn bộ các giao dịch này được suôn sẻ nếu các bên tham gia có những thông tin và hiểu biết đầy đủ về nhau. Song thực tế một bên thường không biết hết những thông tin cần thiết của phía bên kia. Việc thiếu thông tin trong các giao dịch sẽ đưa đến sự lựa chon đối nghịch và rủi ro đạo đức. Thông tin bất cân xướng trên thị trường tài chính khiến ngân hàng phải đối mặt vói nguy cơ rủi ro cao.

Hệ quả của tình trạng thông tin bất cân xứng trong hoạt động tín dụng của ngân hàng

Ngân hàng đơn thuần chỉ là một tổ chức kinh doanh vì mục tiêu lợi

nhuận. Cấp túi dụng là một trong những nghiệp vụ kinh doanh chính của các ngân hàng. Có thể hiểu cấp túi dụng một cách đơn giản là việc ngân hàng cho khách hàng vay một khoản tiền hoặc uy tín của mình trong một thòi gian nhất định. Sau đó khách hàng có nghĩa vụ hoàn trả khoản vay nêu trên cho ngân hàng cộng vói lãi kèm theo.

Việc vay mượn giữa ngân hàng và khách hàng được lập thành hợp đồng tín dụng. Cũng giống như các hợp đồng tài chính khác, hợp đồng tín dụng là một dạng hợp đồng không hoàn chỉnh. Để một hợp đồng được thực hiện đầy đủ thì các bên liên quan trong hợp đồng phải thực hiện đúng nghĩa vụ của mình. Tuy nhiên, không giống như các hợp đổng hoàn chỉnh, việc thực hiện các hợp đồng không hoàn chỉnh gặp nhiều khó khăn vì có rất nhiều tình

huống có thể xẩy ra trong quá trình thực thi hợp đồng mà các bên không

lường trước được. Cũng do chính vần đề này mà trong quá trình thực hiện

hợp đồng, nếu một bên có nhiều thông tin hơn có thể có những hành vi gây tổn hại đến bên ít thông tin hơn. Đây chính là vấn đề bất cân xứng thông tin trong các hoạt động của ngân hàng.

Trong hoạt động túi dụng của các ngân hàng thì tình trạng thông tin bất cân xứng xẩy ra cả trước và sau giao dịch.

Thứ nhất: là tình trạng thông tin bị che đậy và lựa chọn bất lợi, điều này xẩy ra trước giao dịch.

Thông tin bị che đậy là trục trặc của yếu tố cơ hội chủ nghĩa trước hợp đồng, nó nẩy sinh vì thông tin riêng mà người thực hiện giao dịch có trước khi họ ký kết hợp đồng, trong lúc đang tính toán xem việc thực hiện giao dịch có lợi hay không. Đối vói hoạt động túi dụng ngân hàng, thông tin bị che đậy xuất hiện khi nguồn vốn khan hiếm, lãi suất cho vay bị đẩy lên cao. Theo nguyên tắc “rủi ro càng cao - lọi nhuận càng cao” và nguyên tắc loại trừ, khi nguồn túi dụng dồi dào, lãi suất cho vay thấp, thì các dự án có suất sinh lời thấp, rủi ro thấp, đảm bảo khả năng trả nợ một cách chắc chắn và dự án có suất sinh lời cao - rủi ro cao với khả năng trả nợ ít chắc chắn hơn đều được cấp túi dụng để thực hiện. Tuy nhiên, vấn đề nẩy sinh khi nguồn vốn khan hiếm, lãi suất cho vay bị đẩy lên cao, khi đó dự án an toàn không được cấp tín dụng mà chỉ có những dự án có độ rủi ro cao với suất sinh lòi cao được vay vốn để thực hiện. Đây là vấn đề lựa chọn bất lọi trong hoạt động túi dụng ngân hàng. Khi mà các dự án có độ rủi ro cao được thực hiện thì nguy cơ rủi ro của ngân hàng là rất cao.

Thứ hai là tình trạng hành vi bị che đậy và tâm lý ỷ lại, điều này xẩy ra sau khi thực hiện giao dịch.

Tâm lý ỷ lại là hình thức cơ hội chủ nghĩa sau hợp đồng, phát sinh do hành động có tác động đến hiệu quả nhung không dễ dàng quan sát được, và vì thế những người thực hiện các hành động này có thể lựa chọn theo đuổi những lợi ích cá nhân của mình ừên cơ sở gây tổn hại cho lợi ích của người


khác. Để có sự tồn tại tâm lý ỷ lại, phải thoả mãn 3 điều kiện:

-Phải có sự khác biệt quyền lợi giữa các bên.

-Phải có một cơ sở nào đó để tạo ra cơ sở có lợi, hay một hình thức phức tạp khác nhau giữa các cá nhân (tức là lý do để đồng ý giao dịch), từ đó làm lộ ra mâu thuẫn về quyền lợi giữa các bên.

-Phải tồn tại những khó khăn trong việc xác đinh xem các điều kiện thoả thuận có đúng là được tuân thủ và thực hiện hay không.

Tâm lý ỷ lại trong lĩnh vực tài chính xẩy ra sau khi cấp túi dụng, những người được cấp tín dụng luôn có xu hướng muốn thực hiện các đầu tư có rủi ro hơn những người cho vay mong đọi. Vì vậy, khách hàng vay có những khoản lợi nhuận rất lớn nếu kinh doanh thành công, trong khi đó ngân hàng nhận được những khoản lợi ích cố đinh. Ngược lại, nếu việc kinh doanh của khách hàng bị thất bại thì phía ngân hàng sẽ mất một phần hoặc toàn bộ do không được hoàn trả đầy đủ.

Từ đó một câu hỏi đặt ra làm thế nào để hạn chế tình trạng thông tin bất cân xứng?

Trong lý thuyết thông tin bất cân xứng tác giả đã chỉ ra được cơ chế

phát túi hiệu: bên có nhiều thông tin có thể phát túi hiệu đến những bên ít thông tin một cách trung thực và tin cậy.

Thêm nữa bản thân những người có ít thông tin hon cũng có thể tự cải thiện tình trạng của mình thông qua cơ chế sàng lọc: bên có ít thông tin hơn có thể thu thập thông tin từ bên kia bằng cách đưa ra các điều kiện giao dịch hợp đồng khác nhau.

Trải qua hơn hai thập kỷ, lý thuyết về thị trường thông tin bất cân xứng đã hở nên vô cùng quan họng và là họng tâm nghiên cứu của kinh tế học hiện đại. Thông tin bất cân xứng càng hở nên phổ biến và hầm họng khi tính minh

bạch của thông tin, khả năng tiếp cận thông tin và cơ sở hạ tầng thông tin còn

yếu kém.

2.2.5. Các loại rủi ro tín dụng ngân hàng‌

Rủi ro tín dụng của ngân hàng khá đa dạng và phức tạp, có thể nhận diện chúng qua các tiêu chí khác nhau.

* Nếu căn cứ vào hoạt động nghiệp vụ và quản trị điều hành của ngân hàng có thể chia rủi ro tín dụng thành hai loại sau:

+ Rủi ro nợ quá hạn

Nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và hoặc lãi đã quá hạn.

Nợ quá hạn là biểu hiện không lành mạnh của quá trình hoạt động tín dụng của ngân hàng, báo hiệu các rủi ro đối vói ngân hàng và khách hàng. Khi phát sinh các khoản nợ quá hạn sẽ khiến cho ngân hàng phải đối mặt vói các rủi ro không thu hồi được khoản đã cho vay điều này đe doạ sự phát triển ổn định của ngân hàng cũng như đối vói toàn hệ thống các TCTD và của môi trường kinh tế vĩ mô.

+ Rủi ro ứ đọng vốn và thiếu vốn

Trong kinh tế thị trường, vói tư cách là một trung gian tài chính, hoạt động chủ yếu của ngân hàng là đi vay để cho vay, nếu hai khâu trong chu trình hoạt động này không tạo ra được sự phối hợp nhịp nhàng và đồng bộ thì rủi ro sẽ phát sinh. Cụ thể:

-Rủi ro đọng vốn: là hiện tượng vốn huy động của ngân hàng lớn hơn so vói vốn cho vay. Việc đọng vốn này khiến cho ngân hàng tăng chi phí, giảm thu nhập, thậm chí có thể dẫn đến thua lỗ.

-Rủi ro thiếu vốn: nếu nhu cầu vốn vay của khách hàng gia tăng nhưng nguồn vốn huy động lại không đáp ứng được đầy đủ và kịp thời, hoặc nguồn vốn không đáp ứng được chi trả các khoản tiền gửi thanh toán, tiền gửi tiết

kiệm, kỳ phiếu, trái phiếu và các khoản chi phí khác, khi ấy các ngân hàng phải


đối mặt vói rủi ro.

*Căn cứ vào tính chất của rủi ro chia rủi ro tín dụng thành 2 loại:

+ Rủi ro khả kháng

Rủi ro khả kháng là loại rủi ro túi dụng mà ngân hàng có thể dự đoán được chủ thể gây ra rủi ro đó, ước tính được mức độ ảnh hưởng và thời gian phát sinh của chúng ... để có thể có biện pháp hợp lý phòng ngừa hạn chế ở mức độ thấp nhất có thể. Những loại rủi ro này thường do nguyên nhân chủ quan gây ra, thường xuất phát từ bản thân ngân hàng.

+ Rủi ro bất khả kháng

Rủi ro bất khả kháng là loại rủi ro tín dụng mà ngân hàng không thể dự đoán được hoặc không thể dự đoán một cách chính xác nhất ảnh hưởng của chúng. Loại rủi ro này thường ro yếu tố khách quan gây nên như yếu tố môi trường tự nhiên, môi trường xã hội, môi trường chính trị và chính khách hàng vay vốn của ngân hàng.

*Căn cứ vào nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng ngân hàng có thể chia ra thành các loại sau:

+ Rủi ro giao dịch: là hình thức rủi ro mà nguyên nhân phát sinh do

những hạn chế trong quá trình đánh giá, phân tích túi dụng và xét duyệt khi ngân hàng lựa chọn nhũng phương án cho vay; rủi ro phát sinh từ các tiêu chuẩn đảm bảo như các điều khoản trong hợp đồng cho vay, các loại tài sản đảm bảo, chủ thể đảm bảo, hình thức đảm bảo, và mức cho vay trên giá trị của tài sản đảm bảo.

+ Rủi ro danh mục: là hình thức rủi ro tín dụng mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong quản lý danh mục cho vay của ngân hàng, được chia thành hai loại rủi ro là rủi ro nội tại và rủi ro tâp trung.

- Rủi ro nội tại (còn gọi là rủi ro bản chất): xuất phát từ các yếu tố, các đặc điểm riêng có, mang tính liêng biệt bên trong mỗi khách hàng vay hoặc

ngành hoặc lĩnh vực kinh tế. Nó xuất phát từ đặc điểm hoạt động hoặc đặc điểm sử dụng vốn của khách hàng vay vốn.

-Rủi ro tập trung: là trường hợp ngân hàng tập trung vốn cho vay quá nhiều đối vói một số khách hàng, cho vay quá nhiều doanh nghiệp hoạt động trong cùng một ngành, nh vực kinh tế; hoặc trong cùng một vùng địa lý nhất định; hoặc cùng một loại hình cho vay có rủi ro cao.

Khi thiếu sự đa dạng hoá, ngân hàng phải gánh chịu rủi ro tập trung và rủi ro nội tại. Điều này cũng gợi ý một trong những cách kiểm soát rủi ro danh mục là đa dạng hoá, đặt những giới hạn tập trung, đưa ra những giới hạn về tỷ lệ dư nợ vay tối đa đối vói ngành hoặc doanh nghiệp có độ rủi ro cao.

Dù vói cách phân loại nào đi nữa thì mọi loại rủi ro túi dụng đều phải được quan tâm đặc biệt để từ đó đưa ra các biện pháp quản lý hiệu quả nhất nhằm hạn chế đến mức thấp nhất có thể những tổn thất mà ngân hàng phải gánh chịu.

2.2.6. Các biểu hiện rủi ro tín dụng ngân hàng‌

Rủi ro túi dụng ẩn chứa trong những khoản vay có vấn đề và biểu

hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Dưới đây là một số dấu hiệu cơ bản giúp nhận biết, phán đoán và sớm có những biện pháp kịp thời ngăn chặn rủi ro xẩy ra:

2.2.6I.Nhóm dấu hiệu phát sinh từphm khách hàng.

-Nhóm dấu hiệu liên quan đến mối quan hệ với ngân hàng. Có thể phát hiện dấu hiệu rủi ro thông qua các hành vi ứng xử của khách hàng như: trì hoãn hoặc gây khó khăn cho ngân hàng trong quá trình kiểm tra theo đinh kỳ hoặc đột xuất tình hình sử dụng vốn vay, tình hình tài chính, hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng mà không có sự giải thích minh bạch, thuyết phục; không thực hiện đầy đủ các quy đinh, vi phạm pháp luật trong quá trình tín dụng; chậm gửi hoặc trì hoãn gửi

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 06/09/2023