Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Đối Với Khách Hàng Cá Nhân Tại Ngân Hàng Thương Mại


nhiều tác động tới ngân hàng.

- Khi rủi ro xảy ra, ngân hàng có thể làm việc tiếp với khách hàng tới khi khoản vay được hoàn trả một phần hoặc tất cả mà không sử dụng tới luật pháp. Hoặc ngân hàng có thể buộc khách hàng phải tuân thủ các điều khoản xử lý của hợp đồng tín dụng.

- Ngân hàng mua bảo hiểm tín dụng, nếu rủi ro xảy ra thì công ty bảo hiểm sẽ chịu trách nhiệm bồi thường cho ngân hàng theo quy định. Ngoài ra ngân hàng còn có thể tham gia cho vay đồng tài trợ giúp san sẻ rủi ro chủ yếu giữa các ngân hàng, giúp giảm thiểu rủi ro nếu xảy ra

Một số tiêu chí cơ sở để thực hiện giám sát, ngăn chặn rủi ro tín dụng:

- Mức độ tập trung tín dụng

Mức độ tập trung tín dụng là xem xét sự phân chia khoản mục vốn tín dụng trong tổng dư nợ cấp tín dụng theo các tiêu chí như: đối tượng khách hàng, từng nhóm khách hàng, từng ngành kinh doanh, từng thời hạn, từng khu vực địa lý….qua đó giúp nhận diện cơ cấu tín dụng và định hướng rủi ro trong hoạt động tín dụng của NHTM. Mức độ tập trung tín dụng của mỗi ngân hàng phụ thuộc vào chính sách, mục tiêu hoạt động của từng thời kỳ.

Dư nợ tín dụng ngắn hạn =

Dư nợ ngắn hạn

Tổng dư nợ

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 157 trang tài liệu này.

Quản trị rủi ro tín dụng đối với khách hàng cá nhân tại Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam - Chi nhánh Thái Nguyên - 5

Mức độ tập trung theo thời hạn: Mức độ tập trung tín dụng theo thời hạn là tỷ trọng giữa dư nợ tín dụng phân chia theo các hình thức tín dụng: Ngắn hạn, trung hạn, dài hạn trong danh mục đầu tư tín dụng của Ngân hàng. Mức độ tập trung cao thì rủi ro càng lớn.


Dư nợ tín dụng trung, dài hạn =

Dư nợ trung, dài hạn

Tổng dư nợ


Mức độ tập trung tín dụng theo đối tượng khách hàng: Đối tượng khách


Tỷ trọng dư nợ tín dụng với 1 KH =

Dư nợ TD với 1 KH

Tổng dư nợ


Tỷ trọng dư nợ với 1 nhóm KH =

Dư nợ TD với 1 nhóm KH

Tổng dư nợ

hàng được xem xét ở đây bao gồm mức dư nợ tín dụng với 1 khách hàng và với 1 nhóm khách hàng.


Nếu tập trung mức dư nợ tín dụng vào một khách hàng hoặc một nhóm khách hàng quá lớn thì rủi ro cũng sẽ tập trung vào khách hàng và nhóm khách hàng đó. Điều này rất nguy hiểm vì khách hàng hoặc nhóm khách hàng đó gặp rủi ro thì tổn thất xảy ra cho ngân hàng là vô cùng nặng nề và khó khắc phục. Nên tốt hơn hết là phải tôn trọng nguyên tắc phân tán rủi ro, không nên tập trung quá nhiều vốn tín dụng để cấp cho 1 khách hàng hoặc một nhóm khách hàng.

Theo quy định của Ngân hàng nhà nước, Dư nợ cho vay của tổ chức tín dụng bao gồm dư nợ cho vay theo hợp đồng tín dụng; số dư nợ tổ chức tín dụng ủy thác cho tổ chức tín dụng khác cho vay; số dư các khoản tổ chức tín dụng đã trả thay do thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đối với khách hàng.

Tổng dư nợ cho vay của tổ chức tín dụng đối với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng.

Tổng dư nợ cho vay và số dư bảo lãnh của tổ chức tín dụng đối với một khách hàng không được vượt quá 25% vốn tự có của tổ chức tín dụng, trong đó tổng dư nợ cho vay đối với một khách hàng không được vượt quá tỷ lệ quy định tại Khoản 1 Điều này.Tổng dư nợ cho vay của tổ chức tín dụng đối với một nhóm khách hàng có liên quan không được vượt quá 50% vốn tự có của tổ chức tín dụng, trong đó tổng dư nợ cho vay đối với một khách hàng không được vượt quá tỷ lệ quy định.

Tổng dư nợ cho vay và số dư bảo lãnh của tổ chức tín dụng đối với một


nhóm khách hàng có liên quan không được vượt quá 60% vốn tự có của tổ chức tín dụng, trong đó tổng dư nợ cho vay và số dư bảo lãnh đối với một khách hàng không được vượt quá tỷ lệ quy định.

- Số khách hàng được vay vốn

Chỉ tiêu này phản ánh số lượng khách hàng của Ngân hàng qua các thời kỳ, cho thấy khả năng thu hút khách hàng của Ngân hàng thời gian qua

Thông tư 39/2016/TT-NHNN quy định chủ thể vay vốn chỉ bao gồm cá nhân Việt Nam, cá nhân có quốc tịch nước ngoài, pháp nhân thành lập và hoạt động tại Việt Nam, pháp nhân thành lập ở nước ngoài và hoạt động hợp pháp tại Việt Nam. Như vậy, theo quy định tại Bộ luật dân sự 2015 và Thông tư 39/2016/TT-NHNN, tổ chức không có tư cách pháp nhân sẽ không đủ tư cách chủ thể vay vốn như hộ gia đình, tổ hợp tác, hộ kinh doanh, doanh nghiệp tư nhân... Đồng thời, Thông tư 39/2016/TT-NHNN cũng quy định cá nhân được vay vốn cho nhu cầu sử dụng vốn của hộ kinh doanh, doanh nghiệp tư nhân do chính cá nhân là chủ hộ kinh doanh hoặc chủ doanh nghiệp tư nhân.

Ngân hàng nhà nước không quy định giới hạn về số lượng khách hàng vay vốn

- Quy mô tín dụng

Dư nợ trên tổng tài sản =


Tổng dư nợ


Tổng tài sản

Dư nợ bình quân trên số

lượng cán bộ tín dụng


=

Tổng dư nợ

Tổng số cán bộ tín dụng bình quân

Số lượng khách hàng trên

số lượng cán bộ tín dụng


=

Tổng số khách hàng

Tổng số cán bộ tín dụng bình quân

Không phải là chỉ tiêu phản ánh trực tiếp RRTD nhưng nếu quy mô tín dụng tăng quá nóng, không tương ứng với khả năng kiểm soát của ngân hàng thì lúc đó, quy mô tín dụng sẽ phản ánh RRTD. Quy mô tín dụng thể hiện rõ qua các chỉ tiêu:




Nếu ngân hàng mở rộng quy mô tín dụng theo hướng nới lỏng tín dụng cho các khách hàng sẽ dẫn đến rủi ro là khách hàng sử dụng vốn sai mục đích, không kiểm soát được mục đích sử dụng vốn vay… điều này sẽ gây rủi ro cho ngân hàng.

Hiện tại Ngân hàng nhà nước chưa quy định giới hạn về ngưỡng cho phép hoặc không cho phép của các chỉ tiêu về quy mô tín dụng.

1.1.3.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến Quản trị rủi ro tín dụng đối với Khách hàng cá nhân tại Ngân hàng thương mại

o Các yếu tố chủ quan (Các yếu tố bên trong Ngân hàng)

- Trình độ và nhận thức của các cán bộ quản trị rủi ro tín dụng: Các cán bộ chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của việc hạn chế rủi ro tín dụng, chưa có những đánh giá chính xác về khách hàng và khả năng trả nợ của họ. Cán bộ chưa có những đánh giá chính xác về phương án sản xuất kinh doanh của khách hàng, đối tác tham gia bảo lãnh, không dự báo được những vấn đề phát sinh từ phía khách hàng có thể gây bất lợi cho ngân hàng. Hoặc Cán bộ quản trị rủi ro nhận được rõ nhưng vì áp lực chỉ tiêu, lợi ích cá nhân,…dẫn đến làm sai, cụ thể là quy trình cho vay không được thực hiện theo đúng quy định của hệ thống. Nhất là trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt, các NHTM có xu thế giảm thấp các điều kiện vay vốn để giữ và thu hút khách, khi đó xác suất gặp rủi ro sẽ tăng cao.

- Hệ thống thông tin đánh giá khách hàng và quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng chưa đạt được yêu cầu về sự tổng hợp và thống nhất: hệ thống thông tin chưa đầy đủ và thiếu cập nhật đã khiến cho quá trình đánh giá rủi ro gặp nhiều khó khăn. Cụ thể như trong quá trình xếp hạng, đánh giá khách hàng, sự tương tác giữa Phòng mô hình và Khối Quản trị rủi ro của một số ngân hàng chưa thống nhất về các chỉ tiêu xếp hạng, dẫn đến việc hệ thống thông tin chưa được nhất quán, ví dụ như: Khi xếp hạng khách hàng, phòng


mô hình không đưa ra tiêu chí đánh giá nhân thân khách hàng (có thể định lượng qua CIC của vợ/chồng khách hàng), vợ/chồng khách hàng đang nợ nhóm 5 tại TCTD khác trong khi các chỉ số khác của khách hàng tốt, có thể khách hàng vẫn được xếp hạng cao. Đến khi đề xuất cấp tín dụng, Khối quản trị rủi ro thẩm định cũng căn cứ vào xếp hạng khách hàng, nhận diện khách hàng xếp hạng tốt, chủ quan phê duyệt, dẫn đến rủi ro cho ngân hàng. Đến khi phân định trách nhiệm, lý do được các bên giải thích như sau: khối quản trị rủi ro bảo vệ ý kiến rằng trong các chỉ tiêu đánh giá khách hàng, khối quản trị rủi ro có để thông tin nhân thân là một trong những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá khách hàng, khi đề xuất lên phòng mô hình lại bị bỏ qua do chưa hiểu được rõ và định lượng được chỉ tiêu đó trên hệ thống thông qua chỉ số nào nên dẫn đến thiếu sót, gây thiệt hại cho ngân hàng.

- Chiến lược khách hàng của ngân hàng: Tuỳ theo chiến lược kinh doanh cụ thể mà mỗi ngân hàng đưa ra các mức độ chấp nhận rủi ro khác nhau. Ví dụ như khi ngân hàng lựa chọn phát triển sản phẩm auto là trọng tâm, thúc đẩy tăng trưởng dư nợ, để cạnh tranh được với các TCTD khác, ngân hàng bắt buộc phải thực hiện các chiến lược như: giá (lãi suất, phí), thời gian thẩm định, thời gian xử lý hồ sơ, tốc độ giải ngân,…Vì vậy có thể dẫn đến việc ngân hàng chấp nhận giải ngân trước, bổ sung chứng từ sau, đi ngược với quy trình vốn có. Việc này có thể dẫn đến rủi ro là sau khi nhận được vốn vay, khách hàng có thể thiếu thiện chí trong việc bổ sung các thủ tục cần thiết. Khi đó khó khăn trong thu hồi nợ và khởi kiện khi khách hàng không thực hiện trả nợ theo cam kết sẽ thuộc về ngân hàng.

- Mức độ phức tạp của các hoạt động ngân hàng: Các hoạt động kinh doanh của ngân hàng ngày càng đa dạng và phức tạp đem lại lợi nhuận ngày càng lớn tuy nhiên mức độ rủi ro cũng ngày càng cao hơn. Điển hình như hoạt


động cho vay đảo nợ ngân hàng hiện nay: Một khoản vay không được thanh toán đúng thời hạn, thay vì phải đàm phán với khách hàng, cán bộ tín dụng giải quyết tình trạng quá hạn trước mắt bằng cách cho vay đảo nợ. Biện pháp này không kiểm soát được những rủi ro khách hàng đang đối mặt, đồng thời khiến tích tụ rủi ro. Rủi ro sẽ dần phát triển đến mức tài chính doanh nghiệp không chịu đựng được. Lúc này rủi ro thực sự thuộc về ngân hàng.

- Công tác quản lý, tổ chức kiểm soát nội bộ còn lỏng lẻo: Như một số ngân hàng hiện nay, hệ thống quản trị rủi ro còn nhiều kẽ hở, đơn cử như việc để giá trị room phê duyệt tại chỗ quá lớn, thẩm quyền phê duyệt của Giám đốc chi nhánh/ Phòng giao dịch cao, dẫn đến việc phê duyệt mang ý kiến chủ quan của Giám đốc đơn vị lớn, đôi khi vì chỉ tiêu có thê làm trái với các quy định của hệ thống, gây rủi ro và thiệt hại cho tổ chức.

o Các yếu tố khách quan

- Yếu tố môi trường kinh tế - xã hội

Là một tế bào trong nền kinh tế, sự tồn tại và phát triển của ngân hàng cũng như doanh nghiệp chịu ảnh hưởng rất nhiều của môi trường này. Sự biến động của nền kinh tế theo chiều hướng tốt hay xấu sẽ làm cho hiệu quả hoạt động của ngân hàng và doanh nghiệp biến động theo. Đặc biệt, trong điều kiện quốc tế hóa mạnh mẽ như hiện nay, hoạt động của các ngân hàng và doanh nghiệp không chỉ chịu ảnh hưởng của môi trường kinh tế trong nước mà cả môi trường kinh tế quốc tế. Những tác động do môi trường kinh tế gây ra có thể là trực tiếp đối với ngân hàng hoặc tác động xấu đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, qua đó gián tiếp ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng ngân hàng.

Ví dụ như: Các biến động bất thường về tỷ giá hối đoái, lãi suất…ngoài tầm kiểm soát của ngân hàng.

- Yếu tố môi trường tự nhiên

Nói chung môi trường tự nhiên không tác động trực tiếp tới hoạt động tín


dụng của ngân hàng mà vai trò của nó thể hiện qua sự tác động đến hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng, đặc biệt là các khách hàng mà hoạt động của chúng phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên như các doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nông nghiệp, ngư nghiệp. Điều kiện tự nhiên diễn biến thuận lợi hay bất lợi sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, do đó ảnh hưởng tới khả năng trả nợ cho ngân hàng.

- Chính sách vĩ mô của nhà nước

Kinh doanh tiền tệ là ngành kinh doanh có ảnh hưởng rất nhiều đến sự ổn định và phát triển của nền kinh tế, do đó hoạt động ngân hàng cũng chịu sự điều tiết về pháp lý của nhà nước trong đó hoạt động tín dụng ngân hàng là đối tượng chịu sự tác động trực tiếp. Khi hành lang pháp lý chưa an toàn, môi trường kinh doanh kém lành mạnh và những chính sách thường thay đổi, thiếu đồng bộ sẽ gây những ách tắc, hệ lụy nặng nề cho hoạt động của ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng ngân hàng nói riêng.Do môi trường pháp lý chưa đầy đủ chặt chẽ, các quy định còn thiếu và chưa đồng bộ; Các thay đổi trong các chính sách kinh tế vĩ mô của Chính phủ chưa bắt kịp trong tiến trình hội nhập quốc tế; Hệ thống thông tin về các doanh nghiệp do các cơ quan khác cung cấp không chính xác, trung thực,…

Trong những năm gần đây, Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, NHNN và các cơ quan liên quan đã ban hành nhiều Luật liên quan đến hoạt động tín dụng ngân hàng. Tuy nhiên, Luật và các Văn bản đã có song việc triển khai vào hoạt động ngân hàng vẫn còn chậm và còn gặp nhiều vướng mắc bất cập.

- Yếu tố từ phía khách hàng:

Năng lực kinh doanh của khách hàng: Do năng lực kinh doanh yếu kém, tính toán các phương án kinh doanh, hoạch định ngân quỹ không chính xác, không dự tính hết các khoản chi tiêu dẫn đến xác định sai thu nhập trả nợ


ngân hàng. Việc sử dụng vốn sai mục đích, không đúng đối tượng kinh doanh, không đúng phương án, mục đích xin vay, hiệu quả kinh doanh không được phát huy triệt để nên khi đến hạn không thể trả nợ được cho ngân hàng. Khách hàng vay vốn tại nhiều tổ chức tín dụng dưới một danh nghĩa hay nhiều thực thể khác nhau nên dẫn tới thiếu sự phân tích tổng thể, khó theo dõi được dòng tiền dẫn tới việc sử dụng vốn vay một cách chồng chéo và mất khả năng thanh toán dây chuyền.

Uy tín của khách hàng vay vốn: Tình hình tài chính doanh nghiệp yếu kém, thiếu minh bạch: Quy mô tài sản, nguồn vốn nhỏ bé, tỷ lệ nợ so với vốn tự có cao là đặc điểm chung của hầu hết các doanh nghiệp VN. Ngoài ra, thói quen ghi chép đầy đủ, chính xác, rõ ràng các sổ sách kế toán vẫn chưa được các doanh nghiệp tuân thủ nghiêm chỉnh và trung thực. Do vậy, sổ sách kế toán mà các doanh nghiệp cung cấp cho ngân hàng nhiều khi chỉ mang tính chất hình thức hơn là thực chất. Khi cán bộ ngân hàng lập các bản phân tích tài chính của doanh nghiệp dựa trên số liệu do các doanh nghiệp cung cấp, thường thiếu tính thực tế và xác thực, làm giảm uy tín khách hàng. Đây cũng là nguyên nhân vì sao ngân hàng vẫn luôn xem nặng phần tài sản thế chấp như là chỗ dựa cuối cùng để phòng chống RRTD.

1.2. Cơ sở thực tiễn về Quản trị rủi ro tín dụng đối với Khách hàng cá nhân tại các Ngân hàng thương mại ở Việt Nam

1.2.1. Kinh nghiệm thực tiễn về Quản trị rủi ro tín dụng đối với khách hàng cá nhân tại Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng- Chi nhánh Thái Nguyên

Một trong những Ngân hàng TMCP có hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng được đánh giá cao hiện nay là Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng - Chi nhánh Thái Nguyên. Trong những năm gần đây, với những nỗ lực, cố gắng của mình Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng - Chi

Xem tất cả 157 trang.

Ngày đăng: 18/10/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí