danh mục cho vay càng lớn, quản trị danh mục cho vay đạt được mục tiêu về lợi nhuận [40].
c. Tỷ lệ lãi cận biên
Tỷ lệ lãi cận
biên =
Tổng thu nhập lãi từ cho vay – Chi phí
lãi X 100% Tổng tài sản sinh lời
Đối với giá trị danh mục cho vay, hệ số này thể hiện khả năng sinh lời và dự báo khả năng sinh lời trong hoạt động cho vay của ngân hàng. Khi tăng thêm một đơn vị tài sản sinh lời thì thu nhập ròng từ lãi tăng thêm bao
nhiêu đơn vị. Dựa vào chỉ
Có thể bạn quan tâm!
- Quản trị danh mục cho vay tại ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương Việt Nam - 4
- Cơ Cấu Các Loại Rủi Ro Trong Hoạt Động Cho Vay Của
- Quản trị danh mục cho vay tại ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương Việt Nam - 6
- Sơ Đồ Tổ Chức Bộ Máy Quản Trị Danh Mục Cho Vay
- Cách Thức Điều Chỉnh Danh Mục Cho Vay Của Nhtm
- Đường Giới Hạn Khả Năng Sản Xuất Ứng Với Hàng Hóa H1
Xem toàn bộ 233 trang tài liệu này.
tiêu này,
NHTM có thể
điều chỉnh, kiểm soát
chặt chẽ các loại tài sản sinh lời, đồng thời tìm kiếm những nguồn vốn có
chi phí thấp, hay có chính sách tăng hình kinh tế [23].
giảm lãi suất cho phù hợp với tình
Chỉ tiêu về an toàn hoạt động của ngân hàng thương mại
a. Tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung và dài hạn
Đây là một chỉ
tiêu quan trọng để
đánh giá danh mục cho vay
của
NHTM, thể
hiện được danh mục cho vay có sự
cân đối nguồn vốn hay
không. Nếu ngân hàng sử dụng quá mức vốn huy động ngắn hạn để cho
vay hoặc tài trợ các dự án dài hạn, đến hạn trả, ngân hàng sẽ dễ bị thiếu hụt thanh khoản (hay chính là gặp rủi ro thanh khoản). Bên cạnh đó, chỉ tiêu này còn bị giới hạn theo quy định của pháp luật để đảm bảo an toàn tài chính của hệ thống ngân hàng [21].
b. Tỷ lệ dư nợ tín dụng so với nguồn vốn huy động
Nhằm đánh giá tính hiệu quả của việc sử dụng nguồn vốn huy động để cho vay của NHTM, tỷ lệ LDR hay còn gọi là tỷ lệ dư nợ tín dụng/Vốn huy động là một trong những tỷ số quan trọng dùng để đánh giá chỉ tiêu an
toàn của NHTM. Thông thường, LDR càng cao thì khả năng sinh lời của
ngân hàng càng lớn, nhưng đánh đổi là rủi ro thanh khoản cũng cao hơn, bởi tín dụng được coi là tài sản kém linh hoạt nhất trong số các tài sản sinh lời của ngân hàng nhưng lại là tài sản sinh lời chính. LDR tăng, năng lực bảo vệ mình trước nguy cơ rút tiền gửi đột ngột sẽ giảm tương ứng. Không có
con số
cố định nào là hợp lý mà phải
tùy từng thời điểm hoặc tùy từng
ngân hàng mà lựa chọn một con số hợp lý [37]. Tuy nhiên, thông thường tỷ số này khoảng 80% là phù hợp, đôi khi có thể lên đến 90%, nhưng rõ ràng nếu chỉ số này gần 100% hoặc vượt 100% thì quả thực rất đáng lo ngại.
Tỷ lệ cấp tín dụng so
với nguồn vốn huy = động
c. Hệ số rủi ro tín dụng
Dư nợ cho vay Tổng vốn huy động
X 100%
Hệ số rủi ro tín dụng =
Tổng dư nợ cho vay Tổng tài sản có
X 100%
Hệ số rủi ro tín dụng phản ánh tỷ trọng của khoản mục cho vay trong tổng tài sản có, khoản mục cho vay trong tổng tài sản càng lớn thì lợi nhuận sẽ lớn, nhưng đồng thời rủi ro tín dụng càng lớn. Chỉ tiêu này thể hiện tương quan giữa lượng vốn cho vay và tổng tài sản của NHTM, cho
biết hướng đầu tư
và đa dạng hóa các dịch vụ
của ngân hàng, giúp
ngân
hàng phân tán rủi ro và nhằm mục tiêu hạn chế rủi ro tín dụng.
d. Hệ số an toàn vốn tối thiểu (CAR)
Hệ số an toàn vốn tối thiểu (CAR) được đưa ra bởi Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng. (Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng là một trong 5 ủy ban quan trọng của Ngân hàng thanh toán quốc tế được thành lập như một Ủy ban về thông lệ và thực hiện giám sát an toàn hoạt động ngân hàng bởi ngân hàng trung ương thuộc Chính phủ của 10 nước thuộc nhóm G10 vào
cuối năm 1974). Chỉ
tiêu này dùng để
đánh giá khả
năng thanh toán các
khoản nợ có thời hạn và đánh giá mức độ an toàn trong hoạt động tín dụng của các NHTM.
Basel I được ban hành năm 1988 và thời gian bắt đầu áp dụng là 1992, cách tính [86]:
Basel II được ban hành năm 2004 và thời gian bắt đầu áp dụng là năm 2006, có giá trị nhỏ nhất là 8%, cách tính [86]:
Hệ số CAR tính theo Basel II so với Basel I vẫn giữ nguyên tử số, thay đổi mẫu số. Trong Basel I, tài sản có điều chỉnh rủi ro mới đề cập đến rủi ro hoạt tín dụng, còn trong Basel II đã tính thêm rủi ro hoạt động và rủi ro thị trường.
Basel II được ban hành năm 2010 và thời gian bắt đầu áp dụng là năm tháng 01/2013 đến tháng 01/2019, có giá trị nhỏ nhất là 8%, cách tính [86]:
Hệ số CAR tính theo Basel III so với Basel II mặc dù vẫn yêu cầu ở mức độ 8%, tuy nhiên tỷ lệ của loại vốn có chất lượng cao được tăng lên: Tỷ lệ vốn cấp 1 tăng từ 4% trong Basel II lên 6% trong Basel III, đồng thời tỷ lệ vốn của cổ đông thường được tăng từ 2% lên 4%. Những tài sản “Có” vốn có vấn đề được loại trừ khỏi Vốn tự có như khoản đầu tư vượt quá giới hạn 15% vào các tổ chức tài chính. Ngoài ra, Basel III còn đưa ra tiêu chuẩn thanh khoản đối với các ngân hàng. Quy định này yêu cầu ngân hàng nắm giữ các tài sản có tính thanh khoản cao và có chất lượng cao để đáp ứng nhu cầu chi trả trong những trường hợp khó khăn.
Chỉ tiêu đánh giá mức độ tăng trưởng
Tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay
Dư nợ cho vay kỳ thực hiện – Dự nợ cho vay kỳ
= trước
Dư nợ cho vay kỳ trước
X 100%
Chỉ tiêu này vừa để đánh giá tốc độ tăng trưởng trong hoạt động cho
vay của NHTM vừa nhằm mục đích xem xét sự
tuân thủ
pháp luật của
ngân hàng. Chỉ tiêu cho ta biết tỷ lệ tăng trưởng tín dụng của NHTM. Khi NHTM tăng trưởng quá nhanh trong thời gian ngắn, rủi ro danh mục cho vay sẽ tăng cao, giá trị danh mục cho vay sẽ bị ảnh hưởng [23].
QUẢN TRỊ DANH MỤC CHO VAY TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Khái niệm và vai trò của quản trị hàng thương mại
danh mục cho vay đối với ngân
Khái niệm quản trị danh mục cho vay tại ngân hàng thương mại
Quản trị là thiết lập và duy trì một môi trường mà các cá nhân làm
việc với nhau trong từng nhóm có thể hoạt động hữu hiệu và có kết quả. Bên cạnh đó, quản trị còn có thể được hiểu là một quá trình kỹ thuật và xã hội nhằm sử dụng các nguồn, tác động tới hoạt động của con người và tạo
điều kiện thay đổi để
đạt được mục tiêu của tổ
chức [65].Theo James
Stoner và Stephen Robbins: “Quản trị là tiến trình hoạch định, tổ chức, lãnh đạo và kiểm soát những hoạt động của các thành viên trong tổ chức và sử dụng tất cả các nguồn lực khác của tổ chức nhằm đạt được mục tiêu đã đề
ra” [69]. Hoạt động quản trị
là sự
tác động của chủ
thể
quản trị lên đối
tượng quản trị nhằm đạt được những mục tiêu nhất định trong điều kiện biến động của môi trường.
Quản trị giúp tìm ra phương thức phù hợp để công việc hiệu quả cao nhất, chi phí ít nhất. Quản trị cần ba yếu tố điều kiện cơ bản sau:
Phải có chủ thể quản trị, đó là các nhân tố tạo ra các tác động quản trị,
đối tượng quản trị tiếp. Đối tượng bị quản trị phải chịu tiếp nhận sự tác
động đó, tác động có thể diễn ra một hoặc nhiều lần liên tục;
Phải có mục tiêu đặt ra cho chủ thể quản trị và đối tượng, đây là căn cứ
để chủ
thể
tạo ra các nhân tố
tác động. Chủ
thể
quản trị
gồm một hoặc
nhiều người. Đối tượng là một tổ chức, một tập thể hoặc thiết bị, máy móc;
Phải có một nguồn lực. Nguồn lực giúp chủ thể quản trị khai thác trong quá trình quản trị.
Quản trị danh mục cho vay là một trong những hoạt động quản trị
quan trọng của NHTM, thuộc nhóm quản trị tài chính. Quản trị danh mục danh mục cho vay liên quan đến các hoạt động như đánh giá rủi ro và lợi
nhuận của danh mục cho vay, tăng cường an toàn và khả năng tạo ra lợi
nhuận của danh mục cho vay thông qua các giao dịch chuyển đổi rủi ro tín dụng. Quản trị danh mục cho vay không chỉ đánh giá rủi ro tín dụng và lợi nhuận của các khoản cho vay cá nhân, mà còn kiểm soát hồ sơ rủi ro và lợi nhuận chung của danh mục cho vay.
Theo Farm Credit Adminstrative (1998), quản trị danh mục cho vay
hiệu quả sẽ góp phần tối đa hóa cơ hội cho vay, mang lại lợi ích cho cả ngân hàng và khách hàng [59]. Một cách khái quát có thể hiểu về quản trị danh mục cho vay như sau:
“Quản trị danh mục cho vay tại NHTM là quá trình hoạch định, tổ
chức thực hiện, giám sát, điều chỉnh danh mục cho vay nhằm mục đích
tuân thủ hàng.”
các giới hạn pháp lý và khả
năng chống đỡ
tổn thất của ngân
Hình 1.2. Quy trình quản trị danh mục cho vay của NHTM
Nguồn: NCS tổng hợp
Quản trị danh mục cho vay hiệu quả là cơ sở để đảm bảo sự an toàn và tính lành mạnh trong hoạt động kinh doanh của các NHTM. Đây là một quá trình trong đó những rủi ro của chu trình tín dụng được kiểm soát và phòng ngừa. Các khoản vay được thiết lập với những mục tiêu như sau:
Giải ngân các khoản cho vay an toàn, có khả năng thu hồi vốn;
Thực hiện đầu tư nhằm tìm kiếm lợi nhuận cho ngân hàng và bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền;
Phục vụ nhu cầu vay vốn chính đáng, hợp pháp của người dân.
Nếu như đối tượng của quản trị giao dịch cho vay là từng khoản cho vay mà mục tiêu quản trị giao dịch là tối đa hóa lợi nhuận, tối thiểu hóa rủi ro của từng khoản vay cá biệt, thì đối tượng của quản trị danh mục cho vay là cơ cấu và tỷ trọng của các loại cho vay trong tổng thể danh mục.
1.2.1.2. Vai trò của của quản trị thương mại
danh mục cho vay đối với ngân hàng
Cho vay là hoạt động cơ
bản của mỗi NHTM, do đó, quản trị
danh
mục cho vay đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo lợi nhuận và an toàn tài chính cho ngân hàng. Với mỗi NHTM, quản trị danh mục cho vay có vai trò như sau:
a. Thực hiện mục tiêu kinh doanh của NHTM
Mục tiêu cụ thể của hoạt động quản trị danh mục cho vay là hướng
tới xây dựng một danh mục cho vay tối
ưu, có khả
năng tối đa hóa lợi
nhuận và tối thiểu hóa rủi ro cho ngân hàng. Do đó, quản trị danh mục cho
vay tốt sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng giảm dự phòng rủi ro, tiết kiệm
nguồn lực do mức vốn cần thiết cho hoạt động kinh doanh thấp hơn. Quản trị danh mục cho vay tốt sẽ góp phần giảm các chi phí liên quan đến giám sát, xử lý nợ xấu, từ đó gia tăng lợi nhuận cho ngân hàng. Nhờ vậy, ngân hàng sẽ đạt được mục tiêu về doanh thu, lợi nhuận và chi phí được đề ra.
b. Tăng cường khả năng kiểm soát rủi ro của NHTM trước sự bất
ổn định kinh tế
Sự vận hành mang tính chu kì của nền kinh tế đã tạo ra bất ổn định kinh tế, sự tăng trưởng xen kẽ suy thoái diễn ra liên tiếp nhau. Sự bất ổn định kinh tế có thể dẫn đến thời kỳ lạm phát cao hay tỷ lệ thất nghiệp tăng mạnh, hoạt động kinh doanh của các tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế bị ảnh hưởng. Khi đó, các NHTM với vị thế là chủ thể cung cấp các khoản vay cho các cá nhân, tổ chức kinh doanh trong nền kinh tế sẽ đối mặt với
nhiều khó khăn. Nếu các NHTM có thể
quản trị
danh mục cho vay hiệu
quả thì họ sẽ có thể đủ sức mạnh nội tại để chống đỡ và vượt qua những khó khăn từ môi trường kinh doanh bên ngoài.
c. Nâng cao năng lực cạnh tranh của NHTM trong điều kiện hội nhập quốc tế
Quản trị danh mục danh cho vay là một phương thức quản trị tài chính hiện đại đối với ngân hàng thương mại. Việc quản trị danh mục cho vay được xây dựng dựa trên các quy chuẩn pháp lý và kỹ thuật của quốc gia và quốc tế. Vì vậy, quản trị danh mục cho vay sẽ giúp các NHTM nội địa tiếp cận với các chuẩn mực, thông lệ quốc tế về ngân hàng. Đây chính là những tiền đề cần thiết để NHTM có thể tham gia hội nhập và khẳng định vị thế của mình trên thị trường kinh doanh tiền tệ trong và ngoài nước.
Nội dung quản trị danh mục cho vay tại ngân hàng thương mại
Lập kế hoạch quản trị danh mục cho vay
Lập kế hoạch là một quá trình tiếp diễn phản ánh và thích ứng được với những biến động diễn ra trong quá môi trường của mỗi tổ chức. Trên ý nghĩa này, lập kế hoạch được coi là quá trình thích ứng với sự không chắc
chắn bằng việc xác định các phương án hành động để mục tiêu cụ thể của tổ chức [20].
đạt được những
Lập kế
hoạch quản trị
danh mục cho vay là một loại ra quyết định
đặc thù để xác định tương lai cụ thể mà các nhà quản trị mong muốn với hoạt động cho vay của họ. Lập kế hoạch quản trị danh mục cho vay là gốc rễ của hoạt động quản trị danh mục cho vay và tạo tiền đề cho ngân hàng
tiến hành các bước tiếp theo trong nội dung quản trị danh mục cho vay.
Hoạt động lập kế
hoạch quản trị
danh mục cho vay với một ngân hàng
thương mại sẽ bao gồm hai bước chính: xác định mục tiêu của danh mục cho vay và xây dựng danh mục cho vay kế hoạch.
Bước 1: Xác định mục tiêu của danh mục cho vay
Mục tiêu chiến lược của danh mục cho vay được hình thành dựa trên
kế hoạch về vốn và định hướng phát triển kinh doanh của NHTM. Các
NHTM sẽ phân tích các điều kiện sẵn có về vốn, nhân lực của ngân hàng;
kết hợp với mục tiêu tăng trưởng dư nợ cho vay, tăng trưởng lợi nhuận
kinh doanh từ hoạt động cho vay để đặt ra mục tiêu của danh mục cho vay. Trong quá trình lập kế hoạch quản trị danh mục cho vay, nhà quản trị có thể xác định mục tiêu danh mục cho vay dựa trên bốn tiêu thức cơ bản sau:
(1) Kiểm soát rủi ro; (2) Cơ cấu danh mục cho vay; (3)Tăng trưởng danh mục cho vay và (4) Lợi nhuận [59].
Mục tiêu về kiểm soát rủi ro: Mục tiêu kiểm soát rủi ro danh mục cho vay cần phân tách rõ ràng tiêu chuẩn cho các khoản vay mới và các
khoản gia hạn nợ vay; cần xác định được khoản vay nào được đưa vào
hoặc duy trì trong danh mục cho vay. NHTM sẽ sử dụng các tiêu chuẩn
phân tích các khoản vay chi tiết trước khi cung cấp khoản cho vay, dựa trên thông tin tín dụng được người vay cung cấp, như quá trình làm việc, tiền
lương; các báo cáo tài chính; thông tin đã công khai; lịch sử tín dụng của
người vay được ghi chi tiết trong báo cáo tín dụng; sự đánh giá của bên cho vay đối với nhu cầu tín dụng của bên vay và khả năng thanh toán. Khi chất lượng của mỗi khoản vay riêng lẻ đều phù hợp với yêu cầu của NHTM thì chất lượng danh mục cho vay cũng sẽ được nâng cao. Dựa trên các tiêu chí chính đánh giá chất lượng danh mục cho vay, các NHTM sẽ lựa chọn và ưu tiên một hoặc một số chỉ tiêu phù hợp nhất với hoạt động kinh doanh của ngân hàng đó. Mục tiêu về chất lượng danh mục cho vay có thể được thay
đổi để
phù hợp với mong muốn của các nhà quản trị
NHTM. Tuy nhiên,
nếu các mục tiêu về chất lượng danh mục cho vay được kiểm soát chặt
chẽ, NHTM sẽ có những khoản vay có chất lượng tốt hơn và độ rủi ro mà ngân hàng phải gánh chịu từ danh mục cho vay sẽ giảm đi dần theo thời gian [59].