Phân chia theo khu vực địa lý thì danh mục cho vay sẽ chia các đối
tượng khách hàng theo từng vùng miền khác nhau như miền bắc, miền
nam, miền trung. Mỗi khu vực địa lý có một đặc điểm kinh tế xã hội khác nhau, do đó việc quản trị các khoản vay cũng sẽ cần các chính sách khác nhau.
Việc xây dựng tỷ trọng khoản mục cho vay theo khu vực địa lý thể hiện quan điểm của ngân hàng trong việc hình thành thị trường mục tiêu, phù hợp với điều kiện về cơ sở vật chất, mạng lưới hoạt động cũng như năng lực kiểm soát của đội ngũ nhân viên cho vay. Trong quá trình giám sát danh mục cho vay theo khu vực địa lý, ngân hàng sẽ đánh giá hiệu quả đầu tư của từng khu vực trong tương quan so sánh với các khu vực khác, từ đó
sẽ đưa ra những điều chỉnh thích hợp, đảm bảo mục tiêu đã hoạch định
[23].
d. Đối tượng khách hàng
Theo tiêu chí này, danh mục cho vay sẽ được phân loại theo các nhóm khách hàng như doanh nghiệp (doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp ngoài quốc doanh), các cá nhân. Mỗi một đối tượng khách hàng sẽ có những đặc
điểm khác nhau (về cơ cấu tổ chức, về năng lực chịu trách nhiệm trước
Có thể bạn quan tâm!
- Quản trị danh mục cho vay tại ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương Việt Nam - 2
- Quản trị danh mục cho vay tại ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương Việt Nam - 3
- Quản trị danh mục cho vay tại ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương Việt Nam - 4
- Quản trị danh mục cho vay tại ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương Việt Nam - 6
- Quy Trình Quản Trị Danh Mục Cho Vay Của Nhtm
- Sơ Đồ Tổ Chức Bộ Máy Quản Trị Danh Mục Cho Vay
Xem toàn bộ 233 trang tài liệu này.
pháp luật...) vì vậy để định hướng cho việc đầu tư an toàn và hiệu quả, các ngân hàng luôn có sự phân chia hợp lý tỷ trọng các khoản mục cho vay theo đối tượng khách hàng, đảm bảo sự an toàn cần thiết [23].
e. Loại tiền tệ
Danh mục cho vay theo loại tiền tệ thể hiện quan điểm, định hướng trong việc tìm kiếm thị trường theo phạm vi hoạt động của NHTM. Đồng thời, danh mục cho vay theo loại tiền tệ còn giúp ngân hàng đánh giá mức độ rủi ro tiềm ẩn khi có sự biến động của tỷ giá. Ngân hàng có thể chia ra khoản vay theo nội tệ và một số ngoại tệ chủ yếu [21].
f. Lĩnh vực đầu tư
Danh mục cho vay theo lĩnh vực đầu tư thường được phân chia thành hai lĩnh vực lớn là lĩnh vực sản xuất và phi sản xuất. Trong đó mỗi lĩnh vực lại chia nhỏ thành nhiều loại. Chẳng hạn như trong sản xuất thì có ngành nông nghiệp, công nghiệp, thương mại ... trong phi sản xuất thì có cho vay kinh doanh chứng khoán, kinh doanh địa ốc, cho vay tiêu dùng ... Đây là cách thiết kế danh mục nhằm định hướng đầu tư cho vay theo những lĩnh vực
khác nhau, phù hợp sự phát triển trong các giai đoạn khác nhau của nền
kinh tế, kiểm soát rủi ro nhằm [21].
đảm bảo tuân thủ quy định của luật pháp
g. Mức độ xếp hạng tín dụng
Danh mục cho vay sắp xếp theo tiêu chí này giúp ngân hàng quản lý danh mục một cách thường xuyên trên cơ sở thông tin xếp hạng bằng cách điều chỉnh danh mục theo hướng tăng dần tỷ trọng các khoản vay có mức xếp hạng cao. Việc phân chia danh mục theo tiêu thức này thường dựa vào hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ của chính ngân hàng hoặc dựa vào kết quả của các công ty xếp hạng tín dụng [Phụ lục 1].
Ngoài các tiêu chí nêu trên, ngân hàng còn sử dụng một số tiêu chí khác trong xây dựng / thiết kế danh mục cho vay, chẳng hạn như: danh mục cho vay xây dựng theo tính chất đảm bảo của khoản nợ (bao gồm cho vay có bảo đảm bằng cầm cố, thế chấp, bảo lãnh ... ; cho vay không có bảo đảm
bằng tài sản), danh mục cho vay xây dựng theo tính chất sở hữu (chẳng
hạn cho vay doanh nghiệp doanh; tư nhân cá thể ...)
nhà nước; công ty cổ phần; doanh nghiệp liên
Rủi ro danh mục cho vay của ngân hàng thương mại
Khái niệm rủi ro danh mục cho vay của ngân hàng thương mại
Hoạt động kinh doanh của NHTM rất đa dạng, có độ nhạy cao nên rủi ro cũng tiềm ẩn ở nhiều khía cạnh khác nhau. Rủi ro có thể xảy ra từ bất
kì giao dịch hoặc hoạt động kinh doanh nào có chứa đựng yếu tố không
chắc chắn. Trong khi mọi giao dịch hay hoạt động của ngân hàng đều tiềm ẩn một mức độ nhất định của yếu tố không chắc chắn. Do vậy, tất cả các giao dịch hay hoạt động mà NHTM thực hiện đều góp phần hình thành nên rủi ro tổng thể của ngân hàng.
Hình 1.1. Cơ cấu các loại rủi ro trong hoạt động cho vay của
NHTM
Xét trên tổng thể
Nguồn: [21]
các loại rủi ro trong hoạt động kinh doanh của
NHTM, rủi ro từ cho vay được xem là rủi ro chính yếu, do cho vay có vị trí
quan trọng trong tổng tài sản và nguồn lợi nhuận từ cũng rất lớn.
hoạt động cho vay
Rủi ro của hoạt động cho vay của NHTM xét trên góc độ nguyên hình thành, có thể được chia thành: rủi ro giao dịch cho vay và rủi ro danh mục cho vay (hình 1.1). Rủi ro giao dịch: là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong quá trình giao dịch và xét duyệt cho vay, đánh giá khách hàng. Rủi ro giao dịch gồm có: rủi ro lựa
chọn, rủi ro bảo đảm và rủi ro nghiệp vụ. Rủi ro danh mục cho vay của
NHTM là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên nhân phát sinh là do
những hạn chế trong quản lý danh mục cho vay của ngân hàng, được phân chia thành hai loại: rủi ro nội tại và rủi ro tập trung.
Rủi ro danh mục cho vay của NHTM
xuất phát từ sự
kết hợp các
khoản cho vay trong danh mục không đáp ứng được toàn bộ mục tiêu của danh mục do thiếu sự cân bằng giữa các thành phần thuộc danh mục. Khả
năng một danh mục cho vay không tạo ra được tỷ
suất sinh lời dự
kiến
hoặc mong đợi hay mang lại tỷ lệ nợ xấu cao chính là rủi ro danh mục cho vay của NHTM. Rủi ro danh mục cho vay có thể được NHTM khắc phục bằng nhiều biện pháp khác nhau.
Cơ cấu rủi ro danh mục cho vay của ngân hàng thương mại
Rủi ro danh mục cho vay của NHTM bao gồm hai loại chính là rủi ro nội tại và rủi ro tập trung. Hai loại rủi ro danh mục cho vay của NHTM này sẽ được phân tích cụ thể dưới đây:
a. Rủi ro nội tại
Rủi ro nội tại hình thành do chính những đặc điểm riêng biệt của mỗi chủ thể vay vốn, mỗi ngành kinh tế, mỗi hình thức và phương pháp cấp tín
dụng. Ví dụ
như
cho vay lĩnh vực nông nghiệp, rủi ro có thể
xảy ra khi
thiên tai bất ngờ, cho vay lĩnh vực công nghiệp có nguy cơ cung hàng hóa vượt cầu, thị trường tiêu thụ bị thu hẹp, hàng hóa tồn không bán được… Như vậy, rủi ro nội tại rất đa dạng, phong phú và có tính tất yếu, không thể triệt tiêu vì nó nằm trong thuộc tính vốn có của đối tượng được đầu tư. Các biện pháp mà ngân hàng áp dụng chỉ có thể giúp kiểm soát, giảm thiểu
một phần loại rủi ro này. Việc thẩm định kỹ lưỡng, quyết định cho vay
chính xác, tránh cho vay đối với những chủ thể /ngành/ hình thức cho vay có độ rủi ro nội tại cao, quan tâm cho vay nhiều hơn với những đối tượng có độ rủi ro nội tại thấp, có thể giúp ngân hàng tăng mức độ an toàn cho danh mục cho vay của mình.
b. Rủi ro tập trung
Trong các tài liệu khoa học, rủi ro tập trung của danh mục vay được mô tả theo nhiều phương thức khác nhau. Theo Adams và cộng sự (2006), rủi ro tập trung liên quan đến việc một khoản vay chiếm một tỷ trọng lớn trong danh mục của một ngân hàng [41]. Đánh giá về tầm quan trọng của rủi ro tập trung, ủy ban Basel về giám sát ngân hàng (Basel Committee on Banking Supervision) nhận định “Hoạt động cho vay là hoạt động cơ bản của hầu hết các ngân hàng nên rủi ro tập trung trên danh mục cho vay cũng là loại rủi ro cơ bản nhất trong phạm vi một ngân hàng”. Theo định nghĩa của Ủy ban Basel “rủi ro tập trung là bất kỳ rủi ro đơn lẻ hoặc nhóm rủi ro nào có khả năng tạo ra tổn thất đủ lớn liên quan đến mức vốn của ngân hàng, tài sản có của ngân hàng hoặc tổng tổn thất của ngân hàng”[48]. Nói cách khác, rủi ro tập trung trong danh mục cho vay phát sinh khi giá trị của khoản cho vay ngân hàng được cung cấp cho một người vay hoặc một nhóm người vay là khá lớn và có thể tạo ra thua lỗ tăng lên cho ngân hàng. Chính vì quan niệm này, nên khi định hướng xây dựng danh mục cho vay,
ngoài việc thiết kế tỷ trọng hợp lý của các khoản vay đảm bảo tính đa
dạng, ngân hàng còn đưa ra các giới hạn an toàn so với mức vốn tự có, so với tổng dư nợ hoặc so với giá trị tổn thất của toàn danh mục, sao cho thiệt hại tài chính nếu xảy ra vẫn nằm trong khả năng chịu đựng của từng ngân hàng.
Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tập trung của NHTM có thể chia thành ba nhóm chính, bao gồm:
Sự chuyên môn hóa của ngân hàng: Một số ngân hàng chuyên về một số lĩnh vực hoạt động (các tổ chức tín dụng thực hiện một nhiệm vụ kinh tế nhất định) với mục đích trở thành người dẫn đầu thị trường [77].
Kỳ vọng lợi nhuận của ngân hàng: Đôi khi rủi ro tập trung xuất hiện vì khi một hoạt động kinh tế tăng trưởng nhanh, các ngân hàng dựa trên các
chỉ
báo tích cực để
gia tăng các khoản vay cho những lĩnh vực đó. Các
NHTM chấp nhận rủi ro tập trung có thể xảy ra để hướng tới kỳ vọng lợi nhuận cao hơn [77].
Sự kiện phát sinh ngoài tầm kiểm soát của ngân hàng: Rủi ro tập
trung tín dụng có thể phát sinh do các lý do nằm ngoài sự kiểm soát của ngân hàng, ví dụ như quy mô thị trường, sự hội nhập của nền kinh tế,…[77].
Theo quan điểm về quản trị danh mục cho vay hiện đại, việc đa dạng hóa được coi là chìa khóa quan trọng để giảm thiểu rủi ro tập trung. Sự đa
dạng hóa phải thỏa mãn cả hai điều sau đây: (i) trong danh mục cho vay
cần có sự
xuất hiện của một số
lượng lớn những khoản vay có giá trị
tương đối nhỏ, để khi cho biến cố rủi ro xảy ra thì tổn thất mà một khoản vay mang lại không có ảnh hưởng quá lớn đến giá trị danh mục; (ii) có sự độc lập giữa những khoản vay trong danh mục, tức là khi một khoản vay trên danh mục bị vỡ nợ, nó sẽ không ảnh hưởng tới khả năng trả nợ của các khoản vay còn lại.
Ảnh hưởng của rủi ro danh mục cho vay với ngân hàng thương mại
Danh mục cho vay là tài sản chính của các NHTM do vậy rủi ro tồn
tại trong nó có
ảnh hưởng rất lớn. Rủi ro danh mục cho vay có thể
tác
động đến hoạt động của NHTM ở các khía cạnh sau:
a. Hiệu quả kinh doanh của NHTM
Rủi ro danh mục khi xảy ra có thể dẫn tới các khoản nợ xấu của ngân
hàng tăng lên do khách hàng mất khả năng thanh toán. Khi đó, ngân hàng
phải bỏ thêm nhiều khoản chi phí liên quan đến việc giải quyết các khoản nợ xấu này. Chi phí cần chi thêm có thể bao gồm: chi phí để tăng cường giám sát những khách hàng vay quá hạn và các tài sản thế chấp của họ; chi phí phân tích và dàn xếp (thỏa thuận) với khách hàng về các khoản vay này; chi phí duy trì và xử lý tài sản đảm bảo; chi phí liên quan đến việc bảo vệ danh tiếng và sự an toàn của ngân hàng đối với các cơ quan quản lý và thị trường tài chính; chi phí tăng thêm để đảm bảo chất lượng của các khoản
cho vay khác. Việc gia tăng các chi phí này làm cho rủi ro danh mục có thể trở thành một nguyên nhân làm giảm hiệu quả kinh doanh của ngân hàng [50].
Bên cạnh đó, khi rủi ro danh mục tăng lên do các điều kiện kinh tế bất lợi nằm ngoài khả năng kiểm soát của ngân hàng thì ngân hàng sẽ phải bỏ thêm chi phí để khắc phục những hậu quả do các khoản nợ đó mang lại. Như vậy, rủi ro danh mục làm tăng chi phí và từ đó làm giảm hiệu quả của ngân hàng.
b. Khả năng thanh toán của NHTM
Rủi ro danh mục khi xảy ra cũng dẫn đến giảm khả năng thanh toán
của ngân hàng. Tỷ
lệ nợ
quá hạn trên tổng dư
nợ cao không những làm
giảm thu nhập của ngân hàng mà cón làm giảm nguồn vốn, đồng thời làm giảm khả năng thanh toán của ngân hàng. Khi đó ngân hàng sẽ phải đi vay trên thị trường liên ngân hàng với lãi suât cao nhằm đáp ứng nhu cầu thanh
khoản, bởi huy động từ tiền gửi dân cư thường mất rất nhiều thời gian.
Nếu tình trạng này kéo dài với việc hàng loạt người gửi tiền rút tiền, ngân hàng sẽ buộc phải đóng cửa và tuyên bố phá sản [50].
c. Uy tín và năng lực cạnh tranh của NHTM
Một danh mục cho vay chứa đựng quá nhiều rủi ro có thể dẫn tới
giảm uy tín và năng lực cạnh tranh của ngân hàng. Khi ngân hàng mất khả
năng thanh toán, phải đi vay từ nhiều nguồn khác nhau, uy tín của ngân
hàng trên thị trường tài chính sẽ bị giảm đi nghiêm trọng. Hơn nữa tỷ lệ nợ
quá hạn trên tổng dư nợ cao cũng là một chỉ
tiêu quan trọng để
đánh giá
không tốt về tình hình hoạt động của ngân hàng, điều này sẽ ảnh hưởng đến tâm lý đối tác của ngân hàng, dẫn đến việc huy động vốn trở nên khó
khăn hơn và gặp nhiều trở khác [75].
ngại trong việc cạnh tranh với các ngân hàng
Công cụ đo lường rủi ro danh mục cho vay của ngân hàng thương mại
a. HerfindahlHirschman Index (HHI)
HHI là một thước đo thống kê về sự tập trung của thị trường và được sử dụng nhiều trong các thương vụ sáp nhập. Bên cạnh đó, chỉ số HHI còn có thể được áp dụng trong nhiều lĩnh vực khác của nền kinh tế, ví dụ như ngân hàng. HHI được phát triển và công bố độc lập bởi hai nhà kinh tế học A.O.Hirschman và O.C.Herfindahl. Hirschman đưa ra công thức của HHI
trong cuốn sách của ông năm 1945, National Power and the Structure of
Foreign Trade. Năm 1950, Herfindahl cũng trình bày HHI trong luận án tiến
sỹ của ông,
Concentration in the U.S. Steel Industry. Do vậy, chỉ
số này
được đặt tên dựa trên tên của hai nhà kinh tế học này.
Với danh mục cho vay được cấu thành từ nhiều thành phần khác nhau, chỉ số HHI có thể chỉ ra danh mục cho vay đó đã đảm bảo sự đa dạng hay không, thành phần nào của danh mục cho vay đang chiếm tỷ lệ lớn. HHI được tính toán dựa trên công thức sau [66], [67]:
HHI=(%S1)2 + (%S2)2 + (%S3)2 +…+ (%Si)2 +…+(%Sn)2 =
Trong đó:
Si là tỷ lệ phần trăm của thành phần thứ i trong danh mục cho vay (sắp xếp theo tỷ lệ giảm dần) và có n thành phần của danh mục cho vay (giá trị của n phụ thuộc vào chỉ tiêu phân loại danh mục cho vay).
Nếu danh mục cho vay của NHTM đa dạng thì nó sẽ bao gồm số
lượng lớn các khoản vay nhỏ và giá trị HHI gần bằng không. Trong trường hợp danh mục cho vay của NHTM có rủi ro tập trung cao, giá trị của HHI sẽ rất cao. Nếu NHTM chỉ cho vay một ngành duy nhất thì HHI có giá trị bằng một [77].
HHI được coi là chỉ số đơn giản để đánh giá mức độ rủi ro tập trung
của danh mục cho vay. Chính sự đơn giản này được coi là thiếu sót của
HHI. HHI sẽ không đánh giá đúng được bản chất của danh mục cho vay.