trọng mà NHTM nên giải quyết trong việc phát triển chính sách là thiết lập các yêu cầu báo cáo quản lý. Chính sách thể hiện những nội dung sẽ được báo cáo với hội đồng quản trị, tần suất của báo cáo và cá nhân chịu trách nhiệm chuẩn bị báo cáo.
1.2.2.4. Điều chỉnh danh mục cho vay
Điều chỉnh danh mục cho vay là việc NHTM thay đổi cơ cấu danh mục cho vay bằng một số biện pháp kỹ thuật để đáp ứng sự thay đổi trong chiến lược kinh doanh hoặc để thích nghi với sự biến động của chu kỳ kinh doanh.
Cơ sở để thực hiện điều chỉnh danh mục cho vay của NHTM là mục tiêu danh mục cho vay và mức độ rủi ro mà ngân hàng có thể chấp nhận. Mục tiêu danh mục cho vay được đặt ra khi NHTM lập kế hoạch danh mục cho vay, tuy nhiên các mục tiêu này có thể thay đổi trong quá trình kinh doanh. Khi mục tiêu thay đổi, danh mục cho vay đã xây dựng không còn phù hợp thì NHTM phải tiến hành điều chỉnh. Bên cạnh đó, khi tiến hành kinh doanh mà danh mục cho vay có sự tăng lên, vượt qua mức mà NHTM có thể chấp nhận được thì cũng cần được điều chỉnh. Việc điều chỉnh này sẽ thực hiện sau khi NHTM phát hiện ra lỗ hổng rủi ro.
Các cách thức điều chỉnh danh mục cho vay mà NHTM có thể áp dụng gồm:
Bảng 1.1. Cách thức điều chỉnh danh mục cho vay của NHTM
Cách thức | Cách tiến hành | |
1 | Điều chỉnh thông qua giao dịch phi thị trường | Bảo lãnh vay vốn Cho vay hợp vốn |
2 | Điều chỉnh thông qua giao dịch thị trường | Công cụ phái sinh tín dụng Chứng khoán hóa khoản nợ Mua bán nợ |
Có thể bạn quan tâm!
- Quản trị danh mục cho vay tại ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương Việt Nam - 6
- Quy Trình Quản Trị Danh Mục Cho Vay Của Nhtm
- Sơ Đồ Tổ Chức Bộ Máy Quản Trị Danh Mục Cho Vay
- Đường Giới Hạn Khả Năng Sản Xuất Ứng Với Hàng Hóa H1
- Quản trị danh mục cho vay tại ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương Việt Nam - 11
- Kinh Nghiệm Quản Trị Danh Mục Cho Vay Của Ngân Hàng National Westminster Tại Anh
Xem toàn bộ 233 trang tài liệu này.
Nguồn:[79]
a. Điều chỉnh thông qua giao dịch phi thị trường
Các giao dịch phi thị trường ở đây là các giao dịch không tạo ra lợi nhuận cho NHTM, không có sự trao đổi giá trị ngang hàng. Danh mục cho vay của NHTM có thể được điều chỉnh dựa trên các giao dịch phi thị trường, bao gồm bảo lãnh vay vốn hoặc tham gia khoản vay. Việc điều chỉnh danh mục cho vay thông qua các giao dịch phi thị trường thường được áp dụng với các khoản vay của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, chưa niêm yết. Do không có thông tin
đại chúng về các doanh nghiệp này nên việc điều chỉnh danh mục cho vay
bằng một trong hai biện pháp trên sẽ giảm thiểu được rủi ro tiềm tàng cho NHTM.
Bảo lãnh vay vốn là cam kết của bên bảo lãnh với bên nhận bảo lãnh về
việc sẽ
trả
nợ thay cho bên được bảo lãnh trong trường hợp bên được bảo
lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ, đúng hạn nghĩa vụ trả nợ vay. Bên bảo lãnh có thể là một ngân hàng thứ hai hoặc các tổ chức tín dụng có uy tín, nhằm hỗ trợ bên được bảo lãnh có thể vay vốn. Khi có bảo lãnh vay vốn, NHTM có thể được đảm bảo khoản cho vay có thể thu hồi được dù bên đi vay rơi vào trạng thái phá sản. Hay nói cách khác, cơ cấu danh mục cho vay theo đối tượng khách hàng đã thay đổi, có thể chuyển dịch từ bên vay vốn ban đầu sang bên bảo lãnh.
Cho vay hợp vốn (loan participations): Khi NHTM có những khoản cho vay quá lớn, có thể vượt ngoài tầm kiểm soát rủi ro của bản thân ngân hàng,
họ sẽ hợp tác giữa những tổ chức tín dụng khác để chia sẻ một khoản vay
(hoặc một gói cho vay). Các khoản vay như vậy (được gọi là khoản vay tham gia hoặc khoản vay hợp vốn) đôi khi liên quan đến hơn một trăm ngân hàng rải rác trên toàn cầu. Sử dụng việc tham gia khoản vay, NHTM có thể điều chỉnh giảm được các khoản nợ quá lớn, đảm bảo kiểm soát rủi ro tập trung
của danh mục cho vay đồng thời vẫn giữ khách hàng.
được quan hệ
làm ăn tốt đẹp với
b. Điều chỉnh thông qua giao dịch thị trường
Các giao dịch thị trường là các giao dịch có sự trao đổi ngang hàng về giá
trị
và có thể
tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng. Hay nói cách khác, việc điều
chỉnh danh mục qua các giao dịch thị trường tức là biến các khoản vay trở
thành hàng hóa, được mang ra trao đổi trên thị trường nhằm tạo ra lợi nhuận hoặc giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng.
(1) Công cụ phái sinh tín dụng
Công cụ
phái sinh tín dụng: Theo Ngân hàng thanh toán quốc tế
(BIS)
“Công cụ phái sinh tín dụng là một thỏa thuận cho phép một bên (người mua sự an toàn) chuyển giao một phần hoặc toàn bộ rủi ro tín dụng cho một hoặc nhiều bên khác (gọi là bên bán sự an toàn). Rủi ro này được tính toán trên cơ sở tham chiếu với một giá trị quy ước của một tài sản hoặc một nhóm tài sản tham chiếu nào đó mà người chuyển giao rủi ro có thể sở hữu hoặc không sở hữu tài sản đó”. Nói một cách khác, các công cụ phái sinh tín dụng giống như một hợp đồng bảo hiểm trong đó các khoản vay là đối tượng được bảo hiểm
trước rủi ro tín dụng. Bên mua NHTM (tương ứng như bên mua bảo hiểm)
phải trả
một khoản phí cho bên bán sự
an toàn để
có được cam kết sẽ
bồi
hoàn giá trị tổn thất nếu có rủi ro danh mục cho vay xảy ra. Công cụ phái sinh tín dụng có thể phân thành các loại như sau:
Bảng 1.2. Các công cụ phái sinh tín dụng
Công cụ phái sinh tín dụng | Nội dung | |
Trái phiếu ràng buộc là một loại trái phiếu hình thành dựa trên các | ||
1 | Trái phiếu ràng buộc/ Trái phiếu liên kết rủi ro tín dụng (Credit Linked Note) | khoản vay có lãi suất. Khi ngân hàng kí hợp đồng cho vay, NH đồng thời phát hành trái phiếu này, lãi suất trái phiếu phụ thuộc vào rủi ro của khoản cho vay. Sau đó, ngân hàng bán trái phiếu trên thị trường, lấy tiền thu về từ việc bán trái phiếu để đầu tư một loại trái phiếu khác có độ rủi ro thấp hơn. Trong trường hợp ngân hàng thu hồi được khoản cho vay thì khi trái phiếu ràng buộc đáo hạn, các nhà đầu tư sẽ thu về cả gốc và lãi. Tuy nhiên, nếu NH không thể thu hồi khoản vay, các nhà đầu tư sẽ trở thành chủ nợ mới của bên đi vay, còn NH sẽ được bù đắp phần thiếu hụt |
bằng khoản trái phiếu ít rủi ro đã mua. | ||
Hợp đồng hoán đổi rủi ro tín dụng là hợp đồng mà trong đó bên | ||
mua sự an toàn sẽ phải trả một khoản phí cho bên bán sự an toàn. | ||
Khoản phí này được xem là một khoản thu nhập phí đối với bên | ||
bán. Khi rủi ro tín dụng xảy ra (người đi vay không trả nợ) thì bên | ||
2 | Hợp đồng hoán đổi rủi ro tín dụng (Credit Default Swap) | bán phải bồi hoàn lại cho bên mua giá trị của khoản vay theo các điều khoản trong hợp đồng. Ngược lại, rủi ro tín dụng không xảy ra, tức người vay trả trước hết toàn bộ gốc và lãi đúng hạn thì hợp đồng sẽ hết hiệu lực và bên mua mất toàn bộ khoản phí, điều nay giống như bên mua trả một khoản phí để mua bảo hiểm cho khoản vay của mình trước những sự kiện tín dụng bất lợi. |
Các giao dịch giữa bên mua và bên bán diễn ra hoàn toàn bí mật, | ||
bên tham chiếu không hề biết có giao dịch này bởi lẽ bên bán và | ||
bên mua đều không thông báo cho bên tham chiếu (tức người đi | ||
vay biết). |
Hợp đồng quyền chọn rủi ro tín dụng cũng là một công cụ bảo | ||
đảm cho giá trị của các khoản cho vay của ngân hàng, trong đó | ||
3 | Hợp đồng quyền chọn rủi ro tín dụng (Credit Defaut Option) | bên mua sự an toàn sẽ trả phí để mua quyền chọn bán các khoản nợ của mình, bên bán sự an toàn sẽ cam kết thanh toán theo giá thực hiện trong hợp đồng khi sự kiện tín dụng xảy ra. Nếu như khách hàng vay vốn trả nợ như kế hoạch, bên mua sẽ thu được những khoản thanh toán như dự định, hợp đồng quyền chọn sẽ không được sử dụng và bên mua sẽ mất toàn bộ khoản phí trả trên hợp đồng quyền chọn. Nhưng nếu khách hàng không trả nợ |
hoặc khoản vay bị sụt giảm giá trị, bên mua có quyền yêu cầu bên | ||
bán thanh toán giá trị tổn thất theo cam kết. | ||
Hợp đồng trao đổi toàn bộ thu nhập là hợp đồng phát sinh tín | ||
dụng mà bên mua sẽ chuyển giao toàn bộ lãi của khoản vay và | ||
bất kỳ sự tăng giá nào của khoản vay, đổi lại bên bán sẽ thanh | ||
4 | Hợp đồng trao đổi toàn bộ thu nhập (Total Return Swap) | toán cho bên mua một mức lãi suất cơ bản (lãi suất LIBOR) cộng với một tỷ lệ lãi suất cố định và bất cứ khoản giảm giá nào của khoản vay. Theo hợp đồng này, các bên sẽ thanh toán cho nhau định kỳ bất kể có xảy ra sự kiện tín dụng hay không vì bản chất của hợp đồng là sự trao đổi rủi ro và giá trị hai dòng tiền mỗi bên. Nếu người vay trả nợ đầy đủ hay tăng hạng mức tín nhiệm, bên |
bán sẽ được lợi vì giá trị của khoản vay sẽ tăng lên. Hợp đồng | ||
này sẽ chấm dứt nếu người vay không thể thanh toán được khoản | ||
nợ. |
Nguồn: [49]
(2) Chứng khoán hóa các khoản nợ
Chứng khoán hóa các khoản nợ là một công cụ để điều chỉnh danh mục cho vay. Chứng khoán hóa khoản nợ là việc phát hành chứng khoán dựa trên cơ sở giá trị của các khoản phải thu mà một NHTM hay tổ chức tín dụng đang sở hữu. Các khoản phải thu này có thể hình thành từ các khoản cho vay có thế
chấp (Collateralized Loan Obligations) hoặc từ
các trái phiếu có thế
chấp
(Collateralized Bond Obligations). Cấu trúc của chứng khoán hóa các khoản nợ có hai kiểu: cấu trúc truyền thống (Traditional Securitizations) và cấu trúc nhân tạo (Synthetic Securitizations). Cấu trúc chứng khoán hóa nhân tạo được coi là sự phát triển cao hơn một cấp của chứng khoán hóa theo kiểu truyền
thống. Việc chứng khoán hóa không chỉ góp phần thay đổi danh mục cho vay của NHTM để làm giảm rủi ro mà nó còn là cách để ngân hàng tiến hành đầu tư. Trong hai dạng cấu trúc của chứng khoán hóa các khoản nợ, cấu trúc truyền thống có liên hệ trực tiếp đến việc quản trị danh mục cho vay. Chứng khoán hóa cấu trúc truyền thống còn gọi là chứng khoán hóa tiền mặt. Đặc
điểm của nó là quyền sở hữu các khoản cho vay có thế chấp được chuyển
nhượng hợp pháp từ người khởi tạo giao dịch (NHTM cho vay vốn) sang cho một tổ chức chuyên môn hóa (The Special Purpose Vehicle SPV). Sau đó, tổ chức này phát hành các chứng khoán dựa trên tập hợp những khoản vay nợ, rồi chào bán với các nhà đầu tư. Số tiền mà SPV thu được do bán chứng khoán
cho nhà đầu tư
được chuyển đến trả
cho ngân hàng cho vay ban đầu. Các
khoản cho vay được chuyển thành tiền mặt, góp phần giúp ngân hàng tăng vốn; đồng thời rủi ro của việc khoản vay không được hoàn trả sẽ chuyển toàn bộ cho các nhà đầu tư nắm giữ chứng khoán [76].
(3) Mua bán nợ
Mua bán nợ đối với NHTM là một công cụ điều chỉnh danh mục cho vay đã xuất hiện từ lâu ở nhiều quốc gia trên thế giới, và được tiến hành bằng theo một trong các cách thức sau:
Dự phần cho vay là người bán chỉ chuyển giao một phần giá trị khoản vay
trong hợp đồng cho người mua, hay nói cách khác NHTM chỉ bán một phần
khoản vay, không bán toàn bộ. Việc chuyển giao một phần giá trị khoản vay cho bên thứ ba có nét tương đồng với nội dung vay hợp vốn. Tuy nhiên, vay hợp vốn thì có sự tham gia của bên thứ ba ngay từ khi tiến hành hợp đồng vay. Còn dự phần cho vay xuất hiện sau khi NHTM đã ký xong hợp đồng vay với khách hàng, chuyển một phần khoản vay đó cho bên thứ ba. Khi đó, NHTM trở thành ngân hàng đầu mối, theo dõi khoản vay.
Dự phần thời đoạn là khoản vay có thời gian dài được chia thành nhiêu thời hạn ngắn, sau đó NHTM sẽ bán những thời hạn ngắn đó. Ví dụ như một khoản vay có kỳ hạn 10 năm nhưng NHTM chỉ nắm giữ 5 năm, sau đó bán lại cho một bên thứ ba. Như vậy danh mục cho vay của NHTM sẽ giảm đi số tiền tương ứng giá trị của khoản vay, đây là cách thay đổi cơ cấu dư nợ trên danh mục cho vay của ngân hàng.
Chuyển nhượng là việc NHTM chuyển toàn bộ quyền của khoản cho vay
đến bên thứ
ba, khoản vay sẽ
được loại ra hoàn toàn trên bảng cân đối của
người bán. Việc chuyển giao rủi ro này tương đối phổ biến với các NHTM. Nhờ vậy, NHTM sẽ có thể nhanh chóng thay đổi cơ cấu danh mục cho vay theo mục tiêu chiến lược nhưng sẽ mất hoàn toàn mối liên hệ với bên vay ban đầu, bất lợi trong việc thu hút khác hàng trong tương lai [50].
Phương pháp quản trị danh mục cho vay
Phương pháp quản trị danh mục cho vay thụ động
Cơ sở
hình thành phương pháp quản trị
danh mục cho vay thụ
động là
thực hiện mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận của NHTM nhờ khai thác những lợi thế xuất hiện trong quá trình vận động của nền kinh tế. Do đó, cơ cấu danh mục cho vay được hình thành một cách ngẫu nhiên, tỷ trọng các loại cho vay không được xác định trước. Phương pháp quản trị danh mục cho vay thụ động dựa trên định hướng ưu tiên của ngân hàng cho một vài tài sản cho vay nào đó, mà không có cơ cấu hóa tỷ trọng của các loại tài sản cho vay, không xây dựng các hạn mức cho từng ngành, từng khu vực, từng dòng sản phẩm…để làm cơ
sở giám sát việc xây dựng danh mục cho vay. Các khoản cho vay được xây
dựng dựa trên nhu cầu của nền kinh tế trong từng thời kì, chỉ tập trung vào một số loại hình hay lĩnh vực kinh doanh được ưa chuộng hay đang phát triển mạnh. Hoạt động quản trị danh mục cho vay hình thành một cách thụ động,
các NHTM khó kiểm soát được rủi ro tổng thể của cả danh mục cho vay trong suốt quá trình kinh doanh, rủi ro tập trung đối với ngân hàng rất cao.
Phương pháp quản trị danh mục cho vay thụ động có ưu điểm đó chính là
sự giản lược trong việc lập kế
hoạch và thiết kế
danh mục cho vay. Trên
thực tế, với phương pháp quản trị
danh mục cho vay thụ
động, các NHTM
chủ yếu chỉ thực hiện nội dung đó là điều hành, giám sát và điều chỉnh cơ cấu
danh mục cho vay sau giám sát. Hay nói cách khác, điều chỉnh cơ cấu danh
mục cho vay sau giám sát được xem là nội dung chính yếu trong công việc của các ngân hàng theo đuổi phương pháp quản trị này [1].
Phương pháp quản trị danh mục cho vay thụ động thường được áp dụng tại các ngân hàng thuộc các quốc gia đang phát triển, các quốc gia nhỏ với nền kinh tế chủ yếu dựa vào một số ngành sản xuất đặc thù như khai khoáng, sản
xuất nông nghiệp, gia công xuất khẩu…Nền kinh tế của các quốc gia này
chưa có sự hội nhập quốc tế sâu, rộng. Khi tình hình kinh tế ổn định, không có sự khủng hoảng hay suy thoái diễn ra, việc quản trị danh mục cho vay theo phương pháp thụ động không bộc lộ nhiều nhược điểm. Tuy nhiên, khi nền kinh tế gặp phải những biến động, đặc biệt là tình huống các ngành kinh tế đặc thù có dấu hiệu suy thoái, những nhược điểm của phương pháp quản trị danh mục cho vay thể hiện rõ nét. Với một danh mục cho vay tiềm ẩn rủi ro tập trung cao, ngân hàng sẽ phải đối mặt với việc xử lý các hậu quả phát sinh do phát triển một danh mục cho vay thiếu đa dạng về chủ thể vay, hay ngành kinh tế, lĩnh vực đầu tư; hoặc khu vực địa lý.
Phương pháp quản trị danh mục cho vay chủ động
Cơ sở hình thành phương pháp quản trị danh mục cho vay chủ động xuất phát từ đòi hỏi khách quan trong nền kinh tế hiện đại. Việc kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng không chỉ còn đơn thuần là tích tụ, tập trung và phân phối vốn trong nền kinh tế mà chính ngân hàng phải là một doanh nghiệp. Trên cơ