giải quyết các sự vụ đã xảy ra, mục đích để giảm tác động của rủi ro từ các sự vụ đó đến kết quả kinh doanh của ngân hàng; (ii) Trường phái tấn công, các hành động quản trị mang tính chủ động, các sự vụ có thể xảy ra có thể được lường trước tối đa và ngay từ khi xây dựng kế hoạch kinh doanh NHTM đã có cách kiềm chế, phòng tránh các vấn đề đó. Quan điểm quản trị NHTM
của ngân hàng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc ngân hàng sẽ phương pháp quản trị danh mục cho vay chủ động hay thụ động.
b. Văn hóa tín dụng và khẩu vị rủi ro của NHTM
sử dụng
Văn hóa tín dụng và khẩu vị rủi ro của mỗi NHTM đều có điểm khác
biệt riêng, là điểm mấu chốt để
nhà quản trị
quyết định phương thức tiến
Có thể bạn quan tâm!
- Sơ Đồ Tổ Chức Bộ Máy Quản Trị Danh Mục Cho Vay
- Cách Thức Điều Chỉnh Danh Mục Cho Vay Của Nhtm
- Đường Giới Hạn Khả Năng Sản Xuất Ứng Với Hàng Hóa H1
- Kinh Nghiệm Quản Trị Danh Mục Cho Vay Của Ngân Hàng National Westminster Tại Anh
- Lịch Sử Hình Thành Phát Triển Của Ngân Hàng Thương Mại Cổ
- Cơ Cấu Bộ Máy Quản Lý Của Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Ngoại Thương Việt Nam
Xem toàn bộ 233 trang tài liệu này.
hành quản trị danh mục cho vay. Nhà quản trị danh mục cho vay cần nắm rõ văn hóa tín dụng và khẩu vị rủi ro của ngân hàng mình.
Văn hóa tín dụng của NHTM thể
hiện không chỉ
trong mỗi khoản vay
riêng lẻ mà còn liên quan đến toàn bộ danh mục cho vay. Tập hợp những giá trị tín dụng, niềm tin, nhận thức và hành vi tín dụng của một NHTM tạo nên văn hóa tín dụng của ngân hàng. Chiến lược quản trị danh mục cho vay của mỗi NHTM đều chịu sự tác động của văn hóa tín dụng.
Khẩu vị rủi ro của NHTM có thể đo lường được, có liên quan mật thiết đến văn hóa tín dụng, chiến lược kinh doanh và nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng. Khẩu vị rủi ro của mỗi ngân hàng phản ánh thái độ đối với việc chấp nhận rủi ro ở giới hạn/mức độ nhất định. Khẩu vị rủi ro thể hiện các mức độ rủi ro khác nhau và các loại rủi ro khác nhau của danh mục. Nếu NHTM thực hiện tiếp cận tín dụng bảo thủ, ngân hàng đó sẽ duy trì một danh mục cho vay
với các khách hàng có sức khỏe tài chính tốt, cơ
cấu tổ
chức vững vàng.
Ngược lại, nếu một NHTM tiếp cận tín dụng theo hướng năng động, ngân hàng sẽ xây dựng một danh mục cho vay gồm có cả các khách hàng tiềm ẩn rủi ro cao.
c. Chất lượng nguồn nhân lực của NHTM
Con người là chủ thể trung tâm của hoạt động quản trị danh mục cho vay
tại NHTM. Các bước thuộc nội dung quản trị danh mục cho vay đều phụ
thuộc vào chất lượng cán bộ của ngân hàng. Chất lượng nguồn nhân lực của NHTM thể hiện ở ba khía cạnh chính đó là phẩm chất, trình độ và năng lực của cán bộ ngân hàng. Phẩm chất đạo đức tốt là tiêu chuẩn hàng đầu cần có của cán bộ NHTM, đảm bảo họ có sự trung thực, nghiêm túc chấp hành các quy định của pháp luật và của NHTM về cho vay và quản trị danh mục cho vay. Bên cạnh đó, trình độ là yếu tố phản ánh khả năng trí tuệ của đội ngũ cán bộ NHTM, là điều kiện cần thiết để thực hiện quản trị danh mục cho vay và nó được thể hiện ở trình độ được đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ. Cuối cùng, năng lực của cán bộ NHTM là trên cơ sở hệ thống những tri thức được trang bị, họ phải hình thành và nắm vững hệ thống các kỹ năng để tiến hành quản trị danh mục cho vay có hiệu quả.
Chất lượng nguồn nhân lực có
ảnh hưởng rõ nét đến khả
năng lập kế
hoạch danh mục cho vay và điều hành quản trị danh mục cho vay của NHTM. Khả năng lập kế hoạch danh mục cho vay là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả hoạt động quản trị danh mục cho vay của ngân hàng. Muốn vậy, cán
bộ thực hiện việc lập kế
hoạch và thiết kế
danh mục phải được dựa trên
những dự báo chính xác về các điều kiện của nền kinh tế, các diễn biến của thị trường trong thời gian xây dựng danh mục cho vay và đồng thời xuất phát từ các điều kiện thực tế của ngân hàng tại thời điểm lập kế hoạch. Nếu ngân hàng có nhân lực dự báo thông tin kinh tế hoạt động hiệu quả, sẽ đảm bảo
cho tính khả
thi của danh mục mà ngân hàng xây dựng. Việc thiết kế
danh
mục đòi hỏi sự linh hoạt uyển chuyển, không cứng nhắc, phù hợp với những thay đổi có thể xảy ra trong nền kinh tế. Do vậy, có thể có nhiều phương án danh mục được xây dựng, phù hợp với các kịch bản khác nhau. Điều này sẽ
dễ dàng hơn cho ngân hàng trong quá trình giám sát và điều chỉnh cơ cấu danh mục sau giám sát, đảm bảo thực hiện mục tiêu kinh doanh đã hoạch định.
Khả năng điều hành quản trị danh mục cho vay NHTM thể hiện năng lực
của nhà quản trị
ngân hàng. Bộ
máy nhân sự
có trình độ
chuyên môn cao
chuyên nghiệp có thể tổ chức hoạt động quản trị gọn nhẹ nhưng hiệu quả, quy định cơ chế giám sát chặt chẽ, phù hợp với mô hình tổ chức và năng lực của nhân viên thực thi, có tác động rất lớn đến hiệu quả của công tác quản trị danh mục cho vay tại ngân hàng. Nếu kế hoạch có thể lập sát đúng, tính khả thi cao nhưng nhân sự quản trị điều hành không tốt, thì khả năng thất bại vẫn có thể xảy ra. Những giới hạn an toàn đặt ra có thể không được tuân thủ chặt chẽ, khiến cho cơ cấu danh mục cho vay thực tế đi chệch với kế hoạch ban đầu, chạy theo thị trường và kết quả là mục tiêu đặt ra không thực hiện được. Do đó, bên cạnh khả năng hoạch định, thiết kế danh mục thì năng lực điều hành giám sát có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc biến danh mục dự định thành hiện thực. Mặt khác, việc điều chỉnh cơ cấu danh mục có kịp thời, hiệu quả hay không cũng thuộc về khả năng điều hành giám sát danh mục của nhà
quản trị, nó cho thấy sự
nhạy bén của nhà quản trị
trong vấn đề
nắm bắt
những biến đổi của nền kinh tế, chính sách điều hành vĩ mô của Chính phủ, của ngân hàng Nhà nước ... áp dụng vào quá trình điều hành thực tế tại ngân hàng.
Thêm vào đó, đội ngũ nhân viên tín dụng am hiểu nhiều ngành nghề có
thể cho phép ngân hàng dấn thân vào cho vay đa dạng các ngành kinh tế.
Mạng lưới chi nhánh ngân hàng phủ khắp các địa phương, với khả năng kiểm
soát rộng cũng có thể
thúc đẩy sự
đa dạng hóa về
khu vực địa lý trên danh
mục cho vay... Đây là những yếu tố có tác động không nhỏ đến việc xây dựng và thực hiện danh mục cho vay, vì vậy các ngân hàng phải cân nhắc một cách
thận trọng ngay từ khi xây dựng mục tiêu, thiết lập chính sách cũng như thiết kế danh mục cho vay.
d. Tiềm lực tài chính của NHTM
Khả
năng tài chính của NHTM một trong các yếu tố
nội lực có
ảnh
hưởng lớn nhất đến hoạt động quản trị danh mục cho vay của một ngân hàng thương mại. Ở đây, xét ở góc độ kinh doanh, tiềm lực tài chính của NHTM là vốn tự có của ngân hàng, là biểu hiện cho khả năng, sức mạnh về tài chính của ngân hàng, nó có ý nghĩa thực sự quan trọng trong môi trường mang nặng
màu sắc cạnh tranh của hệ
thống
NHTM. Trong trường phái quản trị
ngân
hàng hiện đại, tại hầu hết các
nước
phát triển, thuật ngữ
vốn kinh tế
Economic Capital được sử dụng khá phổ biến khi đề cập đến khả năng chịu đựng rủi ro của ngân hàng. Khái niệm cũng như cách xác định vốn kinh tế có
những điểm khác biệt với vốn chủ
sở hữu, vốn điều lệ
hay vốn pháp lý
thường được nói đến trong hoạt động
NHTM. Vốn kinh tế
là con số
biểu
hiện cho nguồn vốn cần phải có để trang trải cho các tổn thất không dự tính được trong hoạt động cho vay của ngân hàng. Giá trị vốn kinh tế có thể tăng hoặc giảm tùy theo mức độ rủi ro trong hoạt động cho vay của ngân hàng. Khi xây dựng một cơ cấu danh mục cho vay xác định, ngân hàng sẽ tính được giá
trị
tổn thất ngoài dự
kiến và mức dự
phòng tương xứng để
trang trải cho
những tổn thất đó. Ngược lại, với mức vốn đã có, ngân hàng cũng có thể cấu trúc danh mục cho vay sao cho tổng tổn thất của toàn danh mục phù hợp với khả năng chịu đựng rủi ro của vốn ngân hàng. Trong quản trị nội bộ, vốn kinh tế còn là cơ sở để phân bổ giới hạn cho từng đơn vị kinh doanh, từng khu vực, từng dòng sản phẩm, từng nhóm giao dịch tiềm ẩn rủi ro của ngân hàng. Khi giám sát danh mục cho vay, để nhận dạng các dấu hiệu bất ổn trên danh mục, nhất thiết phải xem xét các giới hạn an toàn (thường được xác định theo quy mô vốn tự có) của NHTM.
e. Trình độ công nghệ thông tin của NHTM
Trình độ CNTT của NHTM có ảnh hưởng lớn đến quản trị danh mục cho vay tại ngân hàng. Cùng với sự bùng nổ của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, các xu hướng ứng dụng dữ liệu lớn, ứng dụng trí tuệ nhân tạo, ứng dụng điện tóa đám mây hay nghiên cứu áp dụng tự động hóa quy trình bằng
robot vào lĩnh vực quản trị
tài chính của NHTM càng được
ưa chuộng. Hệ
thống nền tảng CNTT của NHTM càng hiện đại thì sẽ góp phần giúp quản trị danh mục cho vay tại ngân hàng diễn ra nhanh chóng, nhịp nhàng, tiết kiệm chi phí và đảm bảo thực hiện các mục tiêu được đưa ra.
Trình độ CNTT của NHTM sẽ quyết định chất lượng hệ thống thông tin
quản trị. Hệ thống thông tin quản trị của NHTM là cơ sở cho lãnh đạo của
ngân hàng tham chiếu nhằm đưa ra các quyết định quản trị danh mục cho vay
phù hợp. Hệ
thống thông tin tốt phải đảm bảo được các yêu cầu như
cập
nhật thường xuyên, dễ dàng tiếp cận nguồn gốc thông tin rõ ràng minh bạch. Thêm vào đó, trình độ CNTT của NHTM ảnh hưởng đến khả năng kiểm soát được các giao dịch cho vay, thông tin về khoản vay, việc phân loại danh mục cho vay theo các tiêu chí khác nhau của ngân hàng. Trình độ CNTT của NHTM càng cao thì các thao tác trên diễn ra nhanh chóng, góp phần nâng cao kết quả việc thực hiện, điều hành và giám sát danh mục cho vay trong quy trình quản trị danh mục cho vay.
1.2.5.2. Các nhân tố khách quan
a. Môi trường kinh doanh trong nước
Hoạt động cho vay của NHTM là nhằm tài trợ nguồn vốn cho hoạt động
sản xuất, kinh doanh của các cá nhân hay tổ chức, tạo đòn bẩy cho sự phát
triển kinh tế của quốc gia. Vì vậy, với hoạt động quản trị danh mục cho vay,
ngay từ giai đoạn lập kế hoạch danh mục cho vay cho đến khi giám sát thực hiện đều chịu ảnh hưởng của môi trường kinh doanh trong nước.
Trong bước lập kế hoạch danh mục cho vay, các NHTM cần tìm hiểu
môi trường kinh doanh tại thời điểm lập kế hoạch và các dự báo vĩ mô để lựa chọn các ngành kinh tế chủ lực, mũi nhọn, có cơ hội phát triển nhanh chóng.
Danh mục cho vay được thiết kế phải phù hợp với môi trường kinh doanh
trong nước, đảm bảo hạn chế
những rủi ro có thể
xảy ra và mang lại lợi
nhuận bền vững cho ngân hàng. Một quốc gia có môi trường kinh doanh đa dạng, nhiều ngành nghề, trải rộng trên các địa phương khác nhau có thể xây dựng danh mục cho vay cho NHTM có tính đa dạng hóa cao, điều này sẽ giúp cho rủi ro danh mục cho vay được phân tán và giảm thiểu. Rủi ro có thể xảy ra ở bất kì ngành hay lĩnh vực hay chủ thể vay vốn nào. Do đó, nền kinh tế đa dạng sẽ là điểm thuận lợi cho NHTM để xây dựng một danh mục cho vay tối ưu, hiệu quả và an toàn hơn. Trái lại, nếu môi trường kinh doanh trong nước còn chưa phát triển, chỉ sản xuất tập trung một số mặt hàng nhất định thì việc xây dựng danh mục cho vay của NHTM sẽ thiếu tính đa dạng và khó tránh khỏi rủi ro tập trung. Những danh mục cho vay như vậy tiềm ẩn rủi ro rất cao và sẽ trở thành tổn thất cho NHTM nếu kinh tế diễn biến theo chiều hướng xấu.
Hoạt động quản trị danh mục cho vay có sự gắn kết chặt chẽ với biến động của môi trường kinh doanh trong suốt quá trình thực hiện. Hoạt động cho vay là một dạng dịch vụ, phục vụ các chủ thể tham gia kinh doanh. Nếu môi trường kinh doanh không lành mạnh, hoạt động của các chủ thể yếu kém,
sẽ dẫn đến mất khả năng thanh toán các khoản vay cho NHTM. Vì thế,
NHTM không thu hồi được nợ, mất đi cả vốn và lợi nhuận từ việc cho vay,
ảnh hưởng đến tình hình tài chính của ngân hàng.
b. Quản lý nhà nước với hoạt động cho vay của NHTM
Quản lý nhà nước với hoạt động cho vay của NHTM mang tính tất yếu và cần thiết tại mỗi quốc gia. Hoạt động cho vay của ngân hàng luôn luôn và bao giờ cũng phải đặt trong khuôn khổ luật pháp của nhất định. Ngay từ khi lập kế hoạch danh mục cho vay, NHTM phải tuân thủ các giới hạn và chịu sự giám sát của ngân hàng Trung Ương, cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ. Quản lý nhà nước với hoạt động cho vay của NHTM sẽ giúp định ra những chuẩn mực chung cho các NHTM, từ đó có tác dụng cảnh báo sớm các rủi ro với ngành ngân hàng nói chung và NHTM nói riêng. Sự giám sát cảnh báo của cơ quan quản lý ngân hàng là hết sức cần thiết, nhằm đảm bảo sự an toàn không chỉ cho từng ngân hàng mà còn cho cả hệ thống.
c. Trình độ phát triển của thị trường tài chính trong nước
Một trong những yếu tố khách quan có tác động đến việc quản trị danh mục cho vay của NHTM là trình động phát triển của thị trường tài chính trong nước. Một thị trường tài chính hội nhập quốc tế, sôi động sẽ tạo điều kiện hỗ trợ các NHTM tham gia thỏa mãn các nhu cầu trao đổi, nhằm tái cấu trúc danh mục cho vay, từ đó đạt mục tiêu kinh doanh tốt hơn. Các nước có trình độ phát triển của thị trường tài chính cao sẽ cung cấp cho NHTM các công cụ tài chính đa dạng để điều chỉnh danh mục cho vay khi cần thiết. Nói các khác, NHTM có nhiều phương thức để lựa chọn hơn khi cần điều chỉnh danh mục
cho vay. Ngược lại, nếu trình độ
triển của thị trường tài chính còn sơ
khai,
không có sự hội nhập thì sẽ khiến các ngân hàng trở nên thụ động, không linh hoạt để thay đổi cấu trúc danh mục, lâu dần trở nên bảo thủ, khó khăn trong quá trình hội nhập. Thực tế cho thấy, sự phát triển năng động của thị trường tài chính luôn tác động vào danh mục cho vay của ngân hàng, khiến cho cơ cấu của nó có thể linh hoạt và uyển chuyển hơn, “động” hơn, thông qua các hoạt động trao đổi, mua bán trên thị trường.
d. Khả năng hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng của quốc gia
Hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động cho vay nói riêng chịu ảnh hưởng rất mạnh mẽ bởi những tác động của quá trình hội nhập quốc tế. Hầu hết các ngân hàng thương mại tại các quốc gia đang phát triển đều có các hoạt động ngân hàng quốc tế. Danh mục cho vay của các ngân hàng không chỉ gói gọn trong phạm vi một lãnh thổ mà mở rộng ra nhiều quốc gia trên thế giới, vì vậy sự biến động của nền kinh tế thế giới và khu vực có tác động rất mạnh mẽ tới hiệu quả hoạt động cũng như danh mục cho vay của các ngân hàng. Mặt khác, khi hoạt động trong môi trường quốc tế, các ngân hàng phải tuân thủ các quy ước, các chuẩn mực do các tổ chức quốc tế như ủy ban giám sát
ngân hàng Basel, quỹ tiền tệ quốc tế IMF, ngân hàng thế giới WB... Thông
thường những quy tắc chuẩn mực này cũng được Ngân hàng Trung ương các nước chuẩn hóa thành các quy định riêng của quốc gia mình, buộc các ngân hàng trong nước phải tuân theo.
e. Sự minh bạch về tài chính của khách hàng vay vốn
Đối với nhiều cá nhân hay tổ chức kinh tế, thói quen ghi chép đầy đủ,
chính xác rõ ràng các sổ
sách kế
toán
vẫn chưa được
xây dựng một cách
chuyên nghiệp. Nhiều khách hàng cung cấp cho NHTM báo cáo tài chính hay thu nhập cá nhân còn mang tính chất tượng trưng, không phản ánh đúng thực tế. Với những báo cáo tài chính hay thu nhập không rõ ràng, cán bộ NHTM có thể mắc sai lầm trong khâu thẩm định hồ sơ, dẫn đến có quyết định cho vay không đúng tiêu chuẩn quản trị danh mục cho vay của ngân hàng. Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến hiệu quả quản trị danh mục cho vay.
KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRÊN THẾ GIỚI
VỀ QUẢN TRỊ DANH MỤC CHO VAY VÀ BÀI HỌC CHO NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM
Kinh nghiệm của một số ngân hàng thương mại trên thế giới về quản trị danh mục cho vay