Quan Điểm Kinh Doanh Tín Dụng - Hoạt Động Cơ Bản Trong Kinh Doanh Ngân Hàng


- Từng bước tiến hành cơ cấu lại tài sản có với việc chú trọng đến mọi thành phần kinh tế làm ăn hiệu quả, vay trả sòng phẳng và có tài sản đảm bảo cho các khoản vay.

- Mở rộng địa bàn hoạt động ra các tỉnh và mở thêm các chi nhánh.

3.1.2.2 Quan điểm kinh doanh tín dụng - Hoạt động cơ bản trong kinh doanh ngân hàng

- Thực hiện quan điểm kinh doanh vì lợi ích tối đa, không phải vì lợi nhuận tối đa. Hai khái niệm này hoàn toàn khác nhau, nếu vì lợi nhuận tối đa tức là kiếm lợi nhuận bằng mọi giá, còn vì lợi ích tối đa là kiếm lợi cao nhưng có để ý đến các vấn đề như thương hiệu, uy tín.... những thứ này vô cùng quan trọng đối với hoạt động ngân hàng không thể dễ gì có ngay được.

- Thận trọng trong mở rộng tín dụng, mở rộng tín dụng phải kết hợp với an toàn tín dụng. Phấn đấu giảm thấp tỷ lệ nợ quá hạn và đảm bảo luôn ở mức dưới 1%.

- Vấn đề con người trong hoạt động tín dụng là rất quan trọng.

- Phân cấp hạn mức cho vay cho các chi nhánh cấp I và cấp II.

- Quản lý tín dụng được đặt ra như một điều kiện tất yếu của hoạt động tín dụng.


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 128 trang tài liệu này.

3.2. Những thách thức của hệ thống ngân hàng thương mại trong quản lý rủi ro trước yêu cầu hội nhập

Xu hướng tự do hóa và toàn cầu hóa kinh tế khiến hoạt động kinh doanh của ngành ngân hàng của Việt Nam càng trở nên phức tạp, dẫn tới có nhiều rủi ro hoạt động. Đặc biệt sự kiện Việt Nam gia nhập WTO – tổ chức thương mại thế giới, đã đặt ra cho nền kinh tế đất nước nói chung và ngành kinh doanh ngân hàng nói riêng nhiều cơ hội và cả những thách thức.

Quản lý rủi ro trong kinh doanh của hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế - 11

Ngân hàng là lĩnh vực “gay go và quyết liệt” trong đàm phán vào WTO. Sức ép nhiều nhất khi thực hiện các cam kết cũng là ngành ngân hàng. Trong đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới, dù phải chịu sức ép


khá lớn từ các thành viên nhưng theo Chính phủ, Việt Nam đã đạt được cam kết hợp lý, cân bằng và phù hợp với chủ trương đề ra. Đó là đã giữ được những hạn chế quan trọng quy định trong Hiệp định thương mại VIệt – Mỹ, như không cho phép chi nhánh ngân hàng nước ngoài mở điểm giao dịch ngoài trụ sở chi nhánh, hạn chế các tổ chức tín dụng nước ngoài mua cổ phần của các ngân hàng thương mại quốc doanh cổ phần hóa, chưa tự do hóa các giao dịch vốn … Việt Nam cũng bổ sung được một số hạn chế quan trọng để tăng thêm hiệu quả quản lý Nhà nước đối với thị trường ngân hàng khi gia nhập WTO. Trong đó đáng chú ý là yêu cầu về tổng tài sản của các tổ chức tín dụng nước ngoài muốn kinh doanh tại Việt Nam, không cho phép các tổ chức, cá nhân nước ngoài mua quá 30% tổng số sổ phần của các ngân hàng thương mại, trừ khi pháp luật Việt Nam có quy định khác hoặc được sự chấp thuận của cơ quan có thẩm quyền. Trong cam kết Việt Nam cũng có nới lỏng một số hạn chế nhưng đều phù hợp với thực trạng của ngành và chủ trương của Chính phủ; như cho phép các ngân hàng nước ngoài thành lập ngân hàng con 100% vốn trực thuộc từ 1/4/2007 (sớm hơn Hiệp định thương mại Việt Mỹ khoảng 3 năm), đẩy nhanh lộ trình cho phép các chi nhánh ngân hàng nước ngoài được huy động tiền gửi bằng đồng Việt Nam tại Việt Nam.

Trong vòng 5 năm kể từ khi gia nhập, Việt Nam có thể hạn chế quyền của một chi nhánh ngân hàng nước ngoài được nhận tiền gửi bằng đồng Việt Nam từ các thể nhân Việt Nam mà ngân hàng không có quan hệ tín dụng theo tỷ lệ trên mức vốn được cấp của chi nhánh phù hợp với lộ trình sau:



1000

900

800

650

1200

1000

800

600

400

200

2007 2008 2009 2010


Vốn pháp định được cấp

Biểu đồ 3.1: Quyền nhận tiền gửi bằng đồng Việt Nam từ các thể nhân Việt Nam của một chi nhánh Ngân hàng nước ngoài.

Nguồn: theo ĐT (2007), Lộ trình mở cửa của hệ thống ngân hàng Việt Nam trong cam kết gia nhập WTO, http://www.sbv.gov.vn/home/ TinTapchi.asp?tin=331 [23].

Theo Biểu đồ 3.1 thì ngày 1/1/2007 quyền của một chi nhánh ngân hàng nước ngoài được nhận tiền gửi bằng đồng Việt Nam từ các thể nhân Việt Nam là 650%; ngày 1/1/2008: 800%; ngày 1/1/2009: 900% và ngày1/1/2010: 1000%.

Tuy nhiên, hội nhập cũng đồng nghĩa với việc Việt Nam phải đón nhận rất nhiều các đối tác kinh doanh nước ngoài. Các đối tác này có thể là các ngân hàng nước ngoài hay các doanh nghiệp, cá nhân nước ngoài. Cạnh tranh ngày càng gia tăng dưới nhiều góc độ buộc các ngân hàng thương mại cổ phần phải không ngừng mở rộng và phát triển mạng lưới. Như vậy, yêu cầu đặt ra đối với quản lý rủi ro trong kinh doanh ngân hàng càng cao.

Khi các cam kết WTO có hiệu lực, thị trường ngân hàng Việt Nam sẽ phải chứng kiến một sự dịch chuyển bất lợi đối với các ngân hàng nội địa khi có khả năng có tới 45% tỷ lệ khách hàng sẽ chuyển sang vay vốn của ngân hàng nước ngoài, 50% chọn dịch vụ của ngân hàng nước ngoài và


50% chọn ngân hàng nước ngoài gửi tiền. Như vậy, các ngân hàng nội địa sẽ phải chịu một sự chia sẻ đáng kể về thị phần.

Thứ nhất, yêu cầu đặt ra đối với các nhà quản trị là làm sao nâng cao uy tín của của các ngân hàng Việt Nam, đặc biệt là khối ngân hàng cổ phần, bởi vì thông thường tâm lý của người gửi tiền là sẽ chọn những ngân hàng có uy tín cao, dịch vụ tốt trước khi lựa chọn lãi suất hấp dẫn. Uy tín được nâng cao cũng đồng nghĩa với việc ngân hàng sẽ thu hút được nhiều lượng tiền gửi, tăng vốn huy động, tăng tính thanh khoản chung. Đồng thời góp phần tạo đà thúc đẩy các hoạt động kinh doanh khác phát triển theo như thanh toán, tín dụng,..

Thứ hai, hội nhập cũng có nghĩa là các ngân hàng phải đón nhận và tiếp cận với nhiều loại hình, nhiều yếu tố kinh doanh mang tính chất nuớc ngoài hơn. Do vậy, hoạt động kinh doanh cũng chứa đựng nhiều rủi ro hơn, mà đặc biệt là hoạt động tín dụng và thanh toán quốc tế. Trên thực tế đã có những rủi ro phát sinh đối với một số ngân hàng khi cho vay các doanh nghiệp nước ngoài mà không đánh giá, nghiên cứu kỹ về kế hoạch kinh doanh của công ty và tư cách của chủ doanh nghiệp. Hậu quả là doanh nghiệp phá sản, chủ doanh nghiệp bỏ trốn do không có khả năng trả nợ ngân hàng.

Thứ ba, vấn đề nhân sự và công nghệ trong quá trình hội nhập cũng đặt ra cho các nhà quản trị rủi ro nhiều thách thức đáng kể. Các ngân hàng cần phải thường xuyên cập nhật công nghệ mới, áp dụng các phần mềm mới trong vận hành và quản lý các giao dịch. Song song với tiếp cận công nghệ mới, tiên tiến là đòi hỏi về nguồn nhân lực để vận hành và ứng dụng công nghệ. Xu hướng hội nhập tạo điều kiện cho ngành kinh doanh tài chính – ngân hàng phát triển ở mức cao, theo đó là sự ra đời của rất nhiều các ngân hàng nội địa và sự xuất hiện của nhiều chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Một chiến lược


thu hút nhân tài mà không tốn kém chi phí đào tạo của các tổ chức mới này là sẵn sàng đưa ra mức lương hấp dẫn, vị trí lãnh đạo đối với những nguồn nhân lực đã được đào tạo và đang có kinh nghiệm công tác tại các tổ chức tương tự. Điều này đã gây ra những tổn thất không nhỏ cho các ngân hàng bị mất nguồn nhân lực. Do vậy, đối với các nhà quản trị rủi ro thu hút nhân tài đã khó thì việc giữ được được nhân tài lại càng khó hơn.‌

3.3. Giải pháp hoàn thiện quản lý rủi ro trong kinh doanh ngân hàng đáp ứng yêu cầu hội nhập

Để hoàn thiện quản lý rủi ro trong kinh doanh ngân hàng đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và nhằm tối ưu hóa các ưu điểm, tối thiểu hóa các nhược điểm của các biện pháp đã và đang áp dụng được đề cập tại chương 2, các ngân hàng thương mại Việt Nam có thể xem xét và phối kết hợp các biện pháp đã và đang được áp dụng với các giải pháp vi mô và vĩ mô dưới đây:

3.3.1. Giải pháp vi mô

3.3.1.1 Hoàn thiện cơ cấu tổ chức quản lý rủi ro hợp lý

Xác định rõ ràng vai trò và trách nhiệm của Ban lãnh đạo và nhân viên trong từng hoạt động kinh doanh ngân hàng và quản lý rủi ro là rất cần thiết nhằm đảm bảo:

- Những quyết định quan trọng liên quan tới chiến lược kinh doanh, quản lý rủi ro được đưa ra một cách thích hợp bởi một tập thể các cá nhân với kinh nghiệm và kiến thức phù hợp

- Những trách nhiệm do Ban giám đốc giao phó được thực hiện đúng với sự uỷ nhiệm đó.

- Các cá nhân được giao những vai trò thích hợp cho phép đảm bảo phân tách nhiệm vụ một cách phù hợp nhằm tạo môi trường kinh doanh có


kiểm soát. Chẳng hạn đối với hoạt động tín dụng, theo các thông lệ tốt nhất thì các chức năng như Phân tích đánh giá tín dụng; Quan hệ tín dụng và giám sát tín dụng; Kiểm tra tín dụng cần được tách riêng nhằm đảm bảo sự phân tách nhiệm vụ, tránh tình trạng vừa đá bóng vừa thổi còi.

3.3.1.2. Xây dựng bảng điểm tín dụng để đánh giá rủi ro và định giá khoản vay đối với hoạt động tín dụng

Việc xây dựng bảng điểm tín dụng cần phân biệt theo từng nhóm khách hàng vì mỗi nhóm khách hàng có đặc điểm hoạt động khác nhau nên cần có những tiêu chí đánh giá khác nhau:

Nhóm khách hàng là các doanh nghiệp, bao gồm Doanh nghiệp nhà nước (DNNN), các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (DNĐTNN) khi xây dựng bảng điểm cần chú ý các chỉ tiêu chủ yếu sau:

- Các chỉ tiêu tài chính: có thể áp dụng QĐ 57/2002/QĐ-NHNN của Ngân hàng nhà nước ngày 24/01/2002.

- Lưu chuyển tiền tệ

- Quản lý: Kinh nghiệm kinh doanh và kinh nghiệm trong ngành, tính khả thi của phương án kinh doanh.

- Tình hình giao dịch: Quá trình trả nợ vay tại các ngân hàng có phát sinh quan hệ tín dụng; mức độ giao dịch ...

- Các yếu tố bên ngoài: Triển vọng ngành, vị thế cạnh tranh của doanh nghiệp, hình ảnh của doanh nghiệp trên thị trường.

Nhóm khách hàng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ:

- Về cơ bản các chỉ tiêu đánh giá cũng giống nhóm các DNNN và DNĐTNN nhưng tỷ trọng các chỉ tiêu thì khác nhau.

- Đối với khách hàng là DNNN và DNĐTNN các chỉ tiêu tài chính là quan trọng nhất còn đối với các DNVVN các chỉ tiêu đánh giá ông chủ là


quan trọng nhất vì các báo cáo tài chính của các DNVVN không thực sự đáng tin cậy, không phản ánh thực tế hoạt động của doanh nghiệp.

Nhóm khách hàng là cá nhân: Khi đánh giá cần quan tâm đến những vấn đề theo thứ tự sau:

- Tiền án tiền sự

- Tuổi tác

- Trình độ văn hoá

- Nghề nghiệp

- Thời gian làm việc với đơn vị hiện tại

- Chi tiết nơi cư trú hiện tại

- Cơ cấu gia đình và số người phụ thuộc

- Thu nhập hàng năm của bản thân và gia đình

Tuy nhiên việc xây dựng bảng điểm tín dụng thực sự không phải một sớm một chiều, nó cần có thời gian, nguồn lực về con người và công nghệ thông tin. Để có thể xây dựng bảng điểm tín dụng các ngân hàng cần có sự hệ thống một số lượng khá lớn các khoản vay trả nợ tốt và các khoản vay xấu, trên cơ sở đó chuyên gia sẽ kết hợp với công nghệ thông tin tiến hành phân tích tính toán.... Bảng điểm tín dụng cũng chịu ảnh hưởng của các yếu tố về môi trường kinh tế xã hội, do vậy bảng điểm tín dụng cũng phải điều chỉnh theo thời gian.

3.3.1.3. Triển khai ngay việc nghiên cứu ngành, thành phần kinh tế

Qua phân tích lý thuyết và thực trạng trên cho thấy hầu hết các ngân hàng thương mại cần có bộ phận nghiên cứu về ngành và các thành phần kinh tế để đưa ra cảnh báo, định hướng cho các hoạt động kinh doanh chung. Tuy nhiên, việc nghiên cứu về ngành, thành phần kinh tế không hề đơn giản, nó đòi hỏi phải có các nhà chuyên môn có kinh nghiệm về một số ngành kinh tế nhất định, đồng thời phải có khả năng phán đoán và tư duy cao. Do vậy, hầu hết các ngân hàng thương mại cổ phần mới thành lập, quy mô còn ở mức nhỏ


chưa có đủ nguồn lực để tiến hành việc nghiên cứu ngành, thành phần kinh tế. Giải pháp hữu hiệu đối với các đơn vị này là thuê tư vấn hỗ trợ.

Việc nghiên cứu tốt các biến động về ngành và thành phần kinh tế có tác dụng rất quan trọng trong hoạch định chiến lược, đường lối phát triển kinh doanh và đưa ra các quyết định kinh doanh. Đặc biệt biến động về ngành, thành phần kinh tế sẽ ảnh hưởng đến biến động của tỷ giá, mức lãi suất huy động và cho vay, đến tâm lý của người gửi tiền và từ đó ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản của ngân hàng.

Trên cơ sở các nghiên cứu, việc đưa ra chính sách hoạt động kinh doanh cần lập thành văn bản thông báo cho các bộ phận, đặc biệt là bộ phận kinh doanh để thực hiện kinh doanh đúng hướng, hạn chế rủi ro.

3.3.1.4. Đưa ra hạn mức theo ngành, thành phần kinh tế, hạn mức tín dụng cho một khách hàng theo từng ngành

Trên cơ sở nghiên cứu ngành, thành phần kinh tế, nghiên cứu danh mục cho vay hiện tại, các ngân hàng cần đưa ra hạn mức tín dụng cho từng ngành, từng thành phần kinh tế và thông báo cho các bộ phận kinh doanh biết điều chỉnh danh mục tín dụng. Đồng thời, việc đưa ra hạn mức cho từng khách hàng theo ngành cũng cần được trển khai.

Cần tập trung đưa ra hạn mức đối với các khách hàng có quan hệ với nhau như trong cùng một tổng công ty hoặc trong một công ty nhưng có rất nhiều đơn vị hạch toán phụ thuộc có vay vốn tại một ngân hàng nhằm hạn chế rủi ro tập trung. Trên cơ sở các nghiên cứu về ngành, thành phần kinh tế bộ phận kinh doanh đưa ra hạn mức tín dụng cho từng ngành kinh tế và cho từng khách hàng (áp dụng đối với các khách hàng hoặc nhóm khách hàng lớn). Việc đưa ra hạn mức tín dụng nhằm hạn chế rủi ro tập trung và tránh tình trạng sử dụng vốn vay ngân hàng vào những mục đích không

Xem tất cả 128 trang.

Ngày đăng: 03/05/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí