Nguồn: Ngân hàng Nhà nước (2005), Quyết định số 493/2005/QĐ- NHNN ban hành quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của Tổ chức tín dụng [12].
Ngoài hai báo cáo tiêu biểu như Bảng 3.1 và Bảng 3.2 trên về kết quả cho vay bất động sản và về phân loại nợ, trích lập dự phòng, trên cơ sở yêu cầu của ngân hàng Nhà nước và để phục vụ tốt công tác quản lý rủi ro, các ngân hàng cần xây dựng thêm các mẫu biểu báo cáo theo từng sản phẩm cụ thể và theo từng ngành nghề kinh doanh... Đồng thời với việc gửi cho các cơ quan chức năng yêu cầu, báo cáo cần được gửi một bản về bộ phận quản lý rủi ro để đảm bảo có các biện pháp phòng ngừa, quản lý rủi ro kịp thời.
3.3.1.10. Tăng cường sự hỗ trợ của công nghệ thông tin
Công nghệ thông tin là yếu tố rất quan trọng góp phần vào thúc đẩy hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Các ngân hàng thương mại cổ phần đang trên đà phát triển đã không ngừng đổi mới công nghệ, áp dụng các công nghệ hiện đại, hệ thống thông tin ngân hàng sẽ được tiếp tục hoàn thiện nhưng cần đảm bảo yêu cầu cho khách hàng được gửi tiền ở một nơi nhưng rút tiền ở nhiều nơi; sử dụng được các loại thẻ thanh toán, thẻ tín dụng của Ngân hàng... Tuy nhiên yêu cầu vẫn là đảm bảo nhanh chóng, chính xác và tuyệt đối an toàn.
Hiện nay công nghệ thông tin chưa hỗ trợ công tác báo cáo rủi ro nên công tác này còn có nhiều khó khăn về nhân sự, về tính kịp thời của các báo cáo. Do vậy việc thiết kế những báo cáo tín dụng có sự hỗ trợ của công nghệ thông tin là rất cần thiết.
3.3.1.11 Khẩn trương hoàn thiện các mẫu biểu, hợp đồng giao dịch
Một nội dung rất quan trọng trong công tác quản lý rủi ro là việc hoàn thiện các mẫu biểu, các hợp đồng giao dịch. Các mẫu biểu không chỉ là cơ sở pháp lý cho các giao dịch mà còn thể hiện tính chuyên nghiệp của ngân hàng.
Trên thực tế đã có những rủi ro phát sinh do mẫu biểu không thống nhất và không chính xác. Do vậy, các ngân hàng cần có phòng pháp chế với sự tham gia, hỗ trợ của tư vấn luật để soạn thảo các mẫu biểu, hợp đồng tiền gửi, hợp đồng tín dụng... có nội dung pháp lý chặt chẽ.
Có thể bạn quan tâm!
- Ưu, Nhược Điểm Của Các Biện Pháp Quản Lý Rủi Ro Tín Dụng
- Quan Điểm Kinh Doanh Tín Dụng - Hoạt Động Cơ Bản Trong Kinh Doanh Ngân Hàng
- Rà Soát Lại Từng Sản Phẩm Cho Vay Và Có Biện Pháp Quản Lý Rủi Ro Tín Dụng Cho Từng Sản Phẩm
- Quản lý rủi ro trong kinh doanh của hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế - 14
- Quản lý rủi ro trong kinh doanh của hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế - 15
Xem toàn bộ 128 trang tài liệu này.
Đồng thời, việc ban hành mẫu chuẩn về mẫu biểu, hợp đồng giao dịch... phải được các bộ phận kinh doanh nghiêm chỉnh thực hiện.
3.3.1.12. Về lâu dài nên có bộ phận xử lý nợ có vấn đề cho hoạt động tín dụng
Hiện nay hầu hết các khoản nợ quá hạn tại các ngân hàng vẫn do các bộ phận kinh doanh quản lý giải quyết. Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản chỉ có thể giải quyết những khoản vay khó đòi. Hơn nữa, nhiều ngân hàng thương mại quy mô nhỏ thậm chí còn chưa có công ty quản lý nợ và khai thác tài sản, do vậy kể cả những khoản vay khó đòi đều do bộ phận kinh doanh giải quyết. Điều này dẫn đến hiệu quả trong việc xử lý nợ có vấn đề không cao. Nhiều cán bộ không có kinh nghiệm trong xử lý nợ có vấn đề, do vậy, gặp những trường hợp khách hàng không hợp tác trong việc trả nợ và có thái độ bất cần sẽ dẫn đến chán nản công việc và bỏ việc...
3.3.1.13. Phát triển dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt
Thanh toán không dùng tiền mặt là một biện pháp kiểm soát thu nhập mỗi doanh nghiệp và mỗi cá nhân, chống trốn thuế, chống tiêu cực như: đưa hối lộ và nhận hối lộ, buôn bán hàng cấm, buôn lậu, đồng thời còn là biện pháp chống rửa tiền của những kẻ làm ăn không chính đáng.
Tại Việt Nam, tỷ trọng tiền mặt trong lưu thông còn khá cao so với tổng phương tiện thanh toán. Qua sơ đồ cho thấy tỷ trọng tiền mặt trong lưu thông các năm còn khá cao, song đã có dấu hiệu giảm dần và có nhiều tiến bộ, năm 2001:
23,7%; năm 2002: 22,56%; năm 2003: 22,03%; năm 2004: 20,35% và năm 2005:
18,13%.
25
20
15
10
5
0
2000 2001 2002 2003 2004 2005
Tỷ trọng tiền m ặt so với tổng phương tiện thanh toán từ năm 2001 đến 2005
Biểu đồ 3.2: Tỷ trọng thanh toán bằng tiền mặt trong lưu thông
Nguồn: theo Phan Lê (2007), "Khái quát về dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt năm 2006", Tạp chí Ngân hàng, (số 3+4), tr.22 [9].
Trong các quan hệ thương mại buôn bán hiện nay, hình thức thanh toán không dùng tiền mặt cũng được các bên ưa chuộng nhất, “khi trả tiền cho bên thụ hưởng phải sử dụng các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt để chi trả, trừ những khoản được phép chi trả bằng tiền mặt qua Kho bạc Nhà nước”.
Việc phát triển dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt không chỉ là phát triển các thể thức thanh toán truyền thống như séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, thư tín dụng mà còn là phát triển các thể thức thanh toán hiện đại như máy rút tiền tự động ATM, máy đọc để khấu trừ tiền trong thẻ ngân hàng (POS) khi trả tiền hàng hóa dịch vụ. Tại các ngân hàng đã hình thành các trung tâm thẻ, đồng thời lắp đặt máy ATM tại nhiều điểm trên cả nước. Đây là dịch vụ rất tiện ích đối với khách hàng vì họ có thể gửi tiền ở một nơi mà rút tại rất nhiều nơi. Ngoài ra, ngày nay máy ATM còn nhận tiền gửi vào tài khoản tiền gửi không kỳ hạn bằng tiền mặt, thanh toán không dùng tiền mặt trong và ngoài hệ thống một tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán, chuyển tiền không mất phí và thanh toán quốc tế...
Như vậy, việc phát triển dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt nói chung và phát triển các trung tâm thanh toán thẻ cũng như các tiện ích của chúng nói riêng không chỉ là biện pháp hữu hiệu giảm thiểu các rủi ro trong thanh toán mà còn là biện pháp hữu hiệu thu hút khách hàng và nâng cao uy tín của ngân hàng.
3.3.1.14. Nhận thức rõ vai trò và tầm quan trọng của hoạt động bảo hiểm ngân hàng
Hoạt động bảo hiểm ngân hàng có vai trò quan trọng, đặc biệt trước khi ngân hàng phê duyệt một món vay hay cung cấp một dịch vụ thanh toán,.. Bảo hiểm chính là nguồn thanh toán, nguồn trả nợ phụ cho ngân hàng trong trường hợp phát sinh các rủi ro. Chẳng hạn, trường hợp vay mua ô tô trả góp, khách hàng bắt buộc phải mua bảo hiểm tổn thất vật chất xe, trị giá bảo hiểm bằng 100% trị giá xe và chuyển quyền thụ hưởng cho ngân hàng trước khi giải ngân. Điều này đồng nghĩa với khi có sự cố xảy ra làm giảm giá trị xe (tài sản đảm bảo của ngân hàng) thuộc trách nhiệm của bên bảo hiểm thì bên bảo hiểm sẽ phải bồi thường giá trị tổn thất theo tỷ lệ bảo hiểm đã mua cho ngân hàng. Như vậy, bảo hiểm đã góp phần giảm rủi ro do giá trị tài sản đảm bảo giảm sút, đặc biệt trong trường hợp ngân hàng phải thanh lý tài sản đảm bảo để thu hồi nợ. Đối với các trường hợp vay thế chấp phương tiện giao thông cơ giới, phương tiện vận tải biển, cầm cố hàng kho hàng... bên vay đều phải mua các loại bảo hiểm tương ứng và chuyển quyền thụ hưởng cho ngân hàng trước khi giải ngân.
Như vậy, các ngân hàng cần chú trọng và nhận thức rõ vai trò của hoạt động bảo hiểm ngân hàng. Việc mua bảo hiểm không chỉ đảm bảo quyền lợi và giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng mà còn đảm bảo quyền lợi và trách nhiệm của bên vay, của chủ sở hữu tài sản. Do vậy, ngân hàng cần hướng dẫn, đào tạo các cán bộ ngân hàng trong việc thực hiện và tuân thủ quy chế cho vay... Đồng thời, bộ phận quản lý rủi ro tiến hành kiểm soát chặt chẽ hồ sơ về việc
tuân thủ hoạt động bảo hiểm ngân hàng để hạn chế những rủi ro phát sinh do cán bộ ngân hàng vì những lý do khác nhau đã không yêu cầu khách hàng mua bảo hiểm và chuyển quyền thụ hưởng cho ngân hàng.
3.3.1.15. Có chính sách nâng cao trách nhiệm của cán bộ ngân hàng trong quản lý rủi ro
Có một quy trình quản lý rủi ro hoàn hảo với sự hỗ trợ đắc lực của công nghệ thông tin chưa chắc đã quản lý tốt rủi ro nếu không có những con người có trình độ và làm việc với tinh thần trách nhiệm.
Một số chính sách về nhân sự sau đây cần được cân nhắc:
- Có cơ chế tiền lương phù hợp với từng vị trí công tác, từng nhiệm vụ được giao.
- Một cán bộ làm quản lý tín dụng, một cán bộ tín dụng luôn làm tốt công việc của mình không nên có mức thu nhập giống như một nhân viên văn phòng hoặc một kế toán viên.
- Có cơ chế bổ nhiệm, thưởng phạt hiệu quả.
- Có sự trao đổi một cách hiệu quả giữa ban lãnh đạo ngân hàng và nhân viên.
- Phân công công việc theo kiểu "SMART", đó là Specific (cụ thể), Measurable (Có thể đo lường), Achiveable (Có thể đạt được), Relevant (Hợp lý) và Time-frame (Định mốc thời gian).
3.3.2. Giải pháp vĩ mô
3.3.2.1. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước
“Xu hướng tự do, toàn cầu hóa kinh tế và quốc tế hóa các luồng tài chính đã làm thay đổi căn bản hệ thống ngân hàng. Hoạt động kinh doanh trở nên phức tạp hơn và áp lực cạnh tranh giữa các ngân hàng lớn hơn và cùng với nó, mức độ rủi ro cũng tăng lên” (phát biểu của ông Đặng Thanh Bình, Phó thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam).
Trong bối cảnh và điều kiện phát triển như trên, vai trò của Ngân hàng Nhà nước trong việc giám sát, quản lý các rủi ro là rất quan trọng. Ngân hàng
Nhà nước với vai trò là cơ quan quản lý, ban hành các chính sách Ngân hàng nói chung cần tăng cường công tác kiểm toán và kiểm soát nội bộ trong các ngân hàng. Hiện nay hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng của NHNN đối với các ngân hàng được tiến hành định kỳ một lần trong một năm, trừ các trường hợp bất thường cần kiểm tra đột xuất. Thời gian kiểm tra từ 7 đến 10 ngày.
Định kỳ các đoàn kiểm tra của Ngân hàng Nhà nước đi kiểm tra các hoạt động tại các ngân hàng trên cơ sở các hồ sơ giao dịch, hồ sơ khách hàng, song nhiều khi chất lượng kiểm tra chưa cao. Nguyên nhân do cán bộ Ngân hàng Nhà nước bỏ qua một số lỗi hoặc không phát hiện ra một số lỗi dẫn đến ảnh hưởng đến báo cáo về tình hình hoạt động chung của toàn ngành. Do vậy, để kịp thời phát hiện và khắc phục các rủi ro trong toàn bộ các hoạt động kinh doanh ngân hàng, NHNN nên tổ chức thanh tra, giám sát hoạt động các ngân hàng thương mại thường xuyên hơn (đặc biệt các sai sót thường xảy ra có liên quan đến bộ phận tín dụng là nhiều nhất). Đồng thời, NHNN cần phát triển đội ngũ cán bộ thanh tra, tham gia các hiệp ước, thỏa thuận về thanh tra, giám sát ngân hàng và an toàn hệ thống tài chính...
Ngoài ra, ngân hàng Nhà nước cần có những cảnh báo sớm cho các ngân hàng về mọi biến động và rủi ro có thể phát sinh. Ban hành các biểu mẫu báo cáo, thống kê về kết quả hoạt động để nhằm có được những kết luận chung nhất về mức độ tập trung của các rủi ro... qua đó có những chính sách, văn bản quy định phù hợp và hiệu quả.
NHNN cần nhanh chóng sửa đổi Luật NHNN và Luật các tổ chức tín dụng, xây dựng, chỉnh sửa và bổ sung các quy định về cấp phép, tổ chức và hoạt động của các tổ chức tín dụng phù hợp với các cam kết WTO phần liên quan đến lĩnh vực ngân hàng. Đồng thời, việc hoàn thiện các quy định về quản lý ngoại hối và các quy định về hình thức thanh toán không dùng tiền mặt, về các sản
phẩm, dịch vụ mới cũng rất quan trọng đối với hoạt động của các ngân hàng thương mại đặc biệt trong xu thế hội nhập và cạnh tranh mạnh mẽ như hiện nay.
3.3.2.2 Tăng cường hiệu quả hoạt động của Trung tâm thông tin tín dụng (CIC)
Đã có rất nhiều kiến nghị với CIC về tính chính xác, tính cập nhật của thông tin, ở đây tác giả không đề cập đến những vấn đề này nữa mà quan tâm đến những dịch vụ mà CIC nên phát triển cung cấp cho các tổ chức tín dụng, cụ thể như sau:
- Trên cơ sở quyết định 57/2002QĐ-NHNN, ngày 24/01/2002, CIC nên tiếp tục nghiên cứu thêm về các vấn đề khác ngoài tài chính liên quan đến doanh nghiệp như thương hiệu, số năm hoạt động, năng lực quản lý... để hoàn thiện bảng điểm xếp hạng doanh nghiệp.
- Xây dựng bảng điểm cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ và đối tượng là tư
nhân
- Tổng hợp nghiên cứu ngành, phân tích tình hình kinh tế xã hội, gợi ý
chiến lược tín dụng để trên cơ sở đó các tổ chức tín dụng tham khảo để phục vụ cho các quyết định về chiến lược tín dụng.
CIC có điều kiện thuận lợi hơn các tổ chức tín dụng do có một hệ thống dữ liệu và công nghệ thông tin phục vụ cho quá trình thống kê, phân tích một số lượng lớn các mẫu để đưa ra bảng điểm hợp lý.
Trên cơ sở bảng điểm của CIC các TCTD có thể sử dụng ngay hoặc điều chỉnh cho phù hợp với đặc điểm hoạt động của mình.
3.3.2.3 Tăng cường hiệu quả hoạt động của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (DIV)
Tính đến nay số lượng các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi là 994 đơn vị, trong đó có 5 ngân hàng thương mại nhà nước, 34 ngân hàng thương mại cổ phần, 25 chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên doanh, 4
công ty tài chính và 926 quý tín dụng nhân dân [6]. Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam có chức năng chính là kiểm tra, giám sát hoạt động của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi và thực hiện chi trả, tham gia thanh lý tài sản của tổ chức nhận tiền gửi. Do vậy, DIV có vai trò rất quan trọng trong việc kiểm tra nhằm phát hiện sớm và có biện pháp ngăn chặn kịp thời hành vi vi phạm quy định pháp luật về bảo hiểm tiền gửi và quy chế an toàn trong hoạt động ngân hàng. Đặc biệt, khi tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền có văn bản chấm dứt hoạt động và tổ chức đó bị mất khả năng thanh toán, DIV thực hiện trách nhiệm chi trả tiền gửi được bảo hiểm cho người gửi tiền tại các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi theo đúng quy định. Như vậy với hoạt động chi trả tiền gửi được bảo hiểm khi có rủi ro từ phía tổ chức tín dụng này, DIV đã góp phần quan trọng trong việc củng cố lòng tin của người dân đối với hoạt động ngân hàng.
Trong xu thế hội nhập, sự xâm nhập mạnh mẽ của các ngân hàng nước ngoài và sự mở rộng không ngừng cả về chiều rộng và chiều sâu của các ngân hàng thương mại trong nước đòi hỏi Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam phải phát huy vai trò hơn nữa trong việc phòng ngừa và hạn chế các rủi ro trong kinh doanh ngân hàng. Tăng cường sự phối hợp với Thanh tra Ngân hàng Nhà nước trong công tác kiểm tra giám sát hoạt động của các ngân hàng thương mại, đồng thời không ngừng gia tăng số lượng các ngân hàng, tổ chức tín dụng tham gia bảo hiểm tiền gửi.
3.3.2.4. Hoàn chỉnh và ổn định các chính sách phát triển kinh tế- xã hội
Trong những năm vừa qua, Nhà nước đã có những chính sách đúng đắn để khuyến khích phát triển kinh tế trong nước và đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, tạo điều kiện cho ngành ngân hàng phát triển. Song để có thể đồng bộ và thống nhất từ các cấp lãnh đạo cao nhất đến các cấp lãnh đạo địa phương, lãnh