Đánh Giá Thực Trạng Quản Lý Rủi Ro Trong Kinh Doanh Ngoại Hối Của Các Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Tại Tp.hcm


lại được mở ra, Ngân hàng gặp ngay khó khăn trong việc xác định tỷ giá mua bán và rủi ro cho Ngân hàng lại tiếp tục xảy ra. Các NHTM và NHNN vẫn đang tìm kiếm giải pháp để các giao dịch ngoại tệ trên thị trường diễn ra lành mạnh và NHNN quản lý một cách hiệu quả thị trường.


2.4. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG QUẢN LÝ RỦI RO TRONG KINH DOANH NGOẠI HỐI CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN TẠI TP.HCM

2.4.1. Thành tựu

Có ban hành các quy định về quản lý rủi ro trong KDNH trong nội bộ ngân hàng.

Tích cực thay đổi hệ thống cơ sở hạ tầng và mua thêm thiết bị nhằm tăng tính hiệu quả của hoạt động KDNH.

Tuân thủ các quy định quản lý rủi ro của NHNN và của chính ngân hàng.

Thường xuyên nâng cao năng lực quản trị rủi ro của đội ngũ quản lý và thực hiện các quy định quản lý rủi ro.

Lập các bản tin về thị trường liên quan hoạt động KDNH để hỗ trợ cho khách hàng và các bộ phận có liên quan trong ngân hàng.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 250 trang tài liệu này.

Tích cực tiếp thị và quản lý danh mục khách hàng.


Quản lý rủi ro trong kinh doanh ngoại hối của các Ngân hàng thương mại cổ phần tại TP.HCM - Trường ĐH Ngân hàng - 17

2.4.2. Hạn chế

Thiếu các quy định pháp luật cho hoạt động KDNH của ngân hàng.

Tuân thủ các quy định của NHNN mang tính đối phó như về trạng thái ngoại tệ, giao dịch option USD/VND, mua bán ngoại tệ với giá vượt trần quy định.

Chạy theo lợi nhuận nên ít quan tâm đến các quy định về quản lý rủi ro đã ban hành.

Các biện pháp đo lường rủi ro về định lượng và định tính chỉ mang tính tham khảo, thiếu sự cảnh báo và ngăn chặn kịp thời.


Do hạn chế và chậm đầu tư về công nghệ thông tin, việc quản lý rủi ro trong KDNH ít có tính liên thông trong hệ thống các phòng ban chức năng.

Kiến thức của đội ngũ có chức năng thi hành các quy định về quản lý rủi ro trong KDNH còn rất yếu, đặc biệt là đội ngũ nhân viên của phòng QLRR trên Hội sở ngân hàng. Tuy có nhận diện được một phần các rủi ro có thể xảy ra, nhưng chưa đủ khả năng thuyết phục Ban lãnh đạo ngân hàng về tính rủi ro của các giao dịch đã đang thực hiện tại phòng KDNH.

Công việc kinh doanh tại phòng KDNH được thực hiện rất thụ động ở cả các bộ phận như kinh doanh, bán hàng, nghiên cứu sản phẩm mới.

Đội ngũ phân tích và dự báo còn rất mỏng và yếu làm cho các giao dịch thiếu cơ sở định lượng thuyết phục, chủ yếu các quyết định giao dịch mang tính cảm tính nhiều.

Hầu như không sử dụng các sản phẩm phái sinh cho các trạng thái ngoại hối mở của ngân hàng để phòng ngừa rủi ro.


2.4.3. Nguyên nhân

Các chính sách của Chính phủ và NHNN chậm được ban hành để theo kịp các thay đổi của thị trường.

Trong quá trình hội nhập và phát triển, mức độ cạnh tranh ngày càng cao làm cho lợi nhuận các ngân hàng giảm đi nhiều. Do đó, để thực hiện chỉ tiêu lợi nhuận theo kế hoạch, ngân hàng phải chấp nhận các hoạt động kinh doanh có mức độ rủi ro cao hơn và làm cho quy trình quản lý rủi ro gặp nhiều khó khăn.

Lợi ích bị xung đột giữa hai phòng ban trong ngân hàng: phòng KDNH và phòng QLRR. Phòng KDNH luôn muốn kinh doanh có được lợi nhuận cao nhất, phòng QLRR là muốn hoạt động kinh doanh với mức độ an toàn cao nhất cho ngân hàng. Do đó, các cảnh báo và phân tích về rủi ro của phòng QLRR ít được đội ngũ kinh doanh phòng KDNH quan tâm. Từ đó, việc quản lý rủi ro khó được thực hiện.


Việc đầu tư hệ thống công nghệ thông tin tốn kém nhiều, nên các ngân hàng rất ngại thay đổi và nâng cấp hệ thống hạ tầng tuy đã cũ kỹ.

Đội ngũ nhân viên của phòng KDNH phải thực hiện quản lý cả hệ thống KDNH của một ngân hàng, cho nên việc sắp xếp nhân sự để đi học và nâng cao trình độ về KDNH và quản lý rủi ro rất khó thực hiện.

Các sản phẩm phái sinh có liên quan đến USD/VND trên thị trường quốc tế được giao dịch với thời gian ngắn, số tiền ít hơn so với nhu cầu của ngân hàng cần phòng ngừa rủi ro và chi phí rất cao; từ đó làm cho ngân hàng phải phải chấp nhận rủi ro với các giao dịch ngoại tệ trong nước. Với các sản phẩm phái sinh khác, ngân hàng thường ngại chi phí cao; cho nên cũng ít tham gia.


KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Trong những năm qua kể từ 2007 đến nay, nền kinh tế thế giới vẫn còn nhiều diễn biến phức tạp như khủng hoảng nợ công Châu Âu còn nhiều di chứng nặng nề, nhiều nước trong khu vực có mức nợ công/GDP chiếm trên 150%, nền kinh tế phát triển chậm chạp; nền kinh tế Mỹ vẫn chưa thoát khỏi tình trạng khó khăn, thất nghiệp liên tục qua nhiều năm trên 8%, thâm hụt ngân sách ngày càng trầm trọng; các nền kinh tế ở Châu Á cũng chưa thoát khỏi tình trạng suy thoái chung của nền kinh tế toàn cầu. Bên cạnh đó, nền kinh tế Việt Nam cũng còn rất nhiều khó khăn và có ảnh hưởng một phần từ các nền kinh tế trên thế giới như lạm phát trong những năm qua ở mức cao, có năm trên 15%, thâm hụt cán cân thương mại kéo dài qua nhiều năm, tình trạng đôla hóa vẫn còn tiếp diễn chưa có dấu hiệu suy giảm, tín dụng ngoại tệ tuy có giảm nhưng vẫn chưa thể chuyển qua quan hệ mua bán ngoại tệ, v.v… Dưới những tác động tiêu cực trong, ngoài nước cũng như thực trạng về hoạt động KDNH tại các NHTM cổ phần TP.HCM như đã phân tích ở trên, hoạt động KDNH tại các NHTM gặp nhiều rủi ro.

Từ những thực trạng về rủi ro KDNH tại các NHTM cổ phần TP.HCM được nêu trong phần 2.1, phần tiếp theo ở 2.2 là các giải pháp cơ bản nhằm hạn chế rủi ro


KDNH, trong đó bao gồm: ổn định tình hình chính trị, kinh tế, xã hội trong nước, giảm thiểu thấp nhất các tác động tiêu cực của sự suy giảm nền kinh tế thế giới. Bên cạnh đó, để ổn định kinh tế vĩ mô, phát triển thị trường ngoại hối và giảm rủi ro trong KDNH tại các NHTM, Chính phủ cần giảm tỷ lệ lạm phát xuống dưới 10%, giảm nhập siêu xuống dưới 10 tỷ USD/năm, hạn chế và tiến đến xóa bỏ tình trạng đôla hóa nền kinh tế. Ngoài ra, NHNN cần có cơ chế điều hành tỷ giá USD/VND linh hoạt có sự điều tiết của Nhà nước, phát triển thị trường sản phẩm phái sinh ngoại tệ, hạn chế và tiến tới xóa bỏ tín dụng ngoại tệ trong năm 2015, đồng thời chuyển qua giao dịch mua bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối. Cùng với các giải pháp đó, NHTM thực hiện tổ chức hoạt động KDNH và hạn chế rủi ro hoạt động; sử dụng công cụ hạn mức; các phương pháp dự báo tỷ giá và công cụ lệnh nhằm hạn chế rủi ro phát sinh trong KDNH.


CHƯƠNG 3

GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ RỦI RO TRONG KINH DOANH NGOẠI HỐI

CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN TẠI TP.HCM


3.1. ĐỊNH HƯỚNG VỀ TĂNG CƯỜNG HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ RỦI RO TRONG KINH DOANH NGOẠI HỐI CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN

Các NHTM cổ phần cần chú ý đến khâu hoạch định chính sách về quản trị rủi ro ngoại hối, công việc này có ý nghĩa quyết định đến sự thành công trong hoạt động của NHTM nói chung và trong KDNH của các NHTM nói riêng. Chính sách quản trị rủi ro ngoại hối nhằm giúp cho ngân hàng thấy rõ mục đích và định hướng kinh doanh của mình. Ngoài ra, chính sách này còn giúp làm tăng tính chủ động của ngân hàng, tăng khả năng thích nghi của ngân hàng với những khuynh hướng mới và môi trường kinh doanh mới.

Để hạn chế rủi ro trong các giao dịch ngoại hối, Ban lãnh đạo ngân hàng cần xác định các mục tiêu và các nguyên tắc quản trị rủi ro ngoại hối. Trong đó, các ngân hàng đặc biệt chú trọng xây dựng các giới hạn thích hợp trong KDNH, các biện pháp nhằm đảm bảo quy trình kiểm tra nội bộ chính xác trong lĩnh vực kinh doanh ngân hàng, theo Hồ Diệu (2002). [1]

Chính sách quản trị rủi ro ngoại hối bao gồm việc đánh giá thực trạng rủi ro, chất lượng của hệ thống quản trị rủi ro ngoại hối, kỹ năng của đội ngũ nhân sự, xác định các giới hạn nguy cơ rủi ro (thông qua mức duy trì trạng thái ngoại hối) và đa dạng hóa các loại ngoại tệ trong kinh doanh và dự trữ.

Cùng với việc thiết lập hay đổi mới chính sách quản trị rủi ro ngoại hối, các NHTM cổ phần cần thay đổi cơ cấu tổ chức theo một mô hình ngân hàng hiện đại, trong đó cần đặc biệt đảm bảo tuân theo các chuẩn mực quốc tế trong hoạt động quản lý rủi ro KDNH. Bên cạnh đó, các NHTM cũng cần quan tâm đặc biệt đến việc quản trị rủi ro hệ thống, quản trị nguồn nhân lực nhằm đáp ứng ngày càng


cao các yêu cầu về tính hiệu quả của hệ thống quản trị rủi ro và nâng cao lợi nhuận cho hoạt động của các ngân hàng.

Ngoài ra, trong hoạt động quản lý rủi ro cho KDNH tại các NHTM cổ phần, mô hình giá chị chịu rủi ro (VaR) được áp dụng như là một công cụ đo lường định lượng hữu hiệu nhất hiện nay. Hầu hết các NHTM trên thế giới đều đang áp dụng mô hình tính VaR để xác định mức độ chịu rủi ro tối đa đối với các hoạt động KDNH trên thị trường của ngân hàng. Trên cơ sở đó các ngân hàng có thể đưa ra các yêu cầu vốn tối thiểu liên quan đến các mức rủi ro này.

Hơn nữa, các NHTM cổ phần cần xây dựng cho mình một hệ thống quản trị rủi ro hoàn chỉnh. Hệ thống quản lý rủi ro hiệu quả của NHTM cổ phần tối thiểu phải bảo đảm các yếu tố sau như giám sát và quản lý tích cực của Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên và Ban điều hành; ban hành và triển khai đầy đủ các chính sách, quy trình quản lý rủi ro và các giới hạn rủi ro; thiết lập hệ thống thông tin quản lý phù hợp; thiết lập hệ thống kiểm soát nội bộ và kiểm toán nội bộ hoạt động phù hợp. Trách nhiệm quản lý rủi ro của những bộ phận có liên quan và ban lãnh đạo ngân hàng cần được xác lập cụ thể như: từ Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Ban Tổng giám đốc, đến các phòng kiểm tra kiểm soát nội bộ, phòng quản lý rủi ro, phòng kinh doanh ngoại hối.

Một hệ thống quản lý rủi đầy đủ thì không thể thiếu các chiến lược, chính sách, quy trình và hạn mức quản lý rủi ro cho các rủi ro trọng yếu phát sinh. Chính sách và quy trình quản lý rủi ro phải đảm bảo rằng các rủi ro trọng yếu được sớm nhận dạng, được kiểm soát đầy đủ và được báo cáo kịp thời cho Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên, Ban Kiểm soát và Ban điều hành. Ngân hàng phải đảm bảo luôn tuân thủ các quy định an toàn về vốn theo quy định của NHNN và đảm bảo rằng vốn pháp định của NHTM không bị suy giảm và khả năng chịu đựng rủi ro của NHTM đủ bù đắp tất cả các rủi ro mà có thể dẫn đến tổn thất cho các NHTM tại mọi thời điểm. Bộ phận kiểm soát rủi ro thực hiện việc theo dõi, đo lường tất cả các rủi ro của NHTM và đánh giá mức độ đầy đủ của khả năng chịu đựng rủi ro. Nếu


khả năng chịu đựng rủi ro là không đảm bảo, các NHTM cần có các biện pháp xử lý kịp thời.


3.2 CÁC GIẢI PHÁP NHẰM HẠN CHẾ RỦI RO KINH DOANH NGOẠI HỐI CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN TẠI TP.HCM Để kinh doanh ngoại hối có lãi thì ngân hàng phải tạo trạng thái ngoại hối mở

và tỷ giá hay giá phải biến động. Muốn tránh hoàn toàn rủi ro tỷ giá hay giá thì ngân hàng chỉ việc không tiến hành bất kỳ giao dịch ngoại hối nào; hoặc nếu đã tạo trạng thái ngoại hối thì tiến hành đóng trạng thái ngoại hối bằng các giao dịch đối ứng (offsetting transactions) để làm cân bằng trạng thái. Tuy nhiên, đối với phòng KDNH, việc tạo trạng thái ngoại hối và hy vọng tỷ giá biến động theo chiều hướng có lợi là công việc hàng ngày của phòng. Vấn đề đặt ra là: tỷ giá luôn biến động thất thường và không giới hạn làm cho cơ hội kiếm lãi trở nên thường xuyên và vô cùng hấp dẫn. Điều này cũng nói lên một điều rằng, trong KDNH, nếu ngân hàng này thu được lãi thì phải có một ngân hàng nào đó chịu thua lỗ, bởi vì không thể tất cả đều được hoặc đều mất cùng một lúc. Nói cách khác, tiềm năng thu lãi và tiềm ẩn rủi ro trong KDNH là đồng hành với nhau. Lãi lỗ trong KDNH có thể phát sinh cùng với quy mô biến động tỷ giá hay giá, trong khi tỷ giá hay giá biến động là không giới hạn nên có thể làm cho lãi lỗ phát sinh là rất lớn. Do đó, việc tìm giải pháp nhằm hạn chế rủi ro trong KDNH là vô cùng cần thiết. Sau đây là các giải pháp cơ bản nhằm giúp hạn chế rủi ro trong KDNH tại các NHTM cổ phần TP.HCM.


3.2.1 Tổ chức lại hoạt động kinh doanh ngoại hối

Một NHTM trong KDNH cần có ba phòng có liên quan mật thiết với nhau nhằm hạn chế rủi ro hoạt động trong quá trình KDNH tại các NHTM và tăng cường khả năng quản lý rủi ro trong hoạt động của ngân hàng. Trong thời gian qua, các NHTM tại TP.HCM phần lớn tập trung phát triển hoạt động của phòng kinh doanh nhằm tạo ra nhiều lợi nhuận cho ngân hàng và ít chú trọng kiểm soát một cách kỷ lưỡng hoạt động của hai phòng còn lại là phòng thanh toán và phòng quản lý rủi ro.


Do đó, các NHTM cổ phần tại TP.HCM cần xác định rõ, phân chia rõ ràng chức năng và nhiệm vụ cũng như có cơ chế để kiểm soát quá trình hoạt động của từng phòng. Các phòng này bao gồm:

- Phòng kinh doanh (Dealing Room): Tại đây, các Dealer trực tiếp tham gia mua bán trên thị trường liên ngân hàng và các khách hàng khác, nghĩa là họ phải đối mặt với thị trường, đối thủ cạnh tranh. Phòng kinh doanh cần kiểm soát được một cách chắc chắn trạng thái trường hay đoản của từng đồng tiền và vàng tại bất cứ thời điểm nào, cũng như phương án thoát ra khỏi từng trạng thái là như thế nào. Cán bộ kinh doanh phải là người chịu trách nhiệm cuối cùng về lãi lỗ trong hoạt động của mình và bảo đảm rằng hoạt động của mình luôn nằm trong giới hạn quản lý rủi ro cho phép hay có thể kiểm soát được của lãnh đạo ngân hàng.

- Phòng thanh toán (Back Office): Đây là phòng có chức năng độc lập, không nhất thiết phải được đặt ngay cạnh phòng kinh doanh; có nhiệm vụ xác nhận giao dịch, thực hiện thanh toán, đối chiếu số dư, sao kê tài khoản, v.v…

- Phòng quản lý rủi ro (Mid Office): Có nhiệm vụ kiểm tra theo dõi, giám sát các hạn mức mà mỗi Dealer được phép sử dụng, tránh không để cán bộ kinh doanh vượt ra ngoài khuôn khổ thẩm quyền và quá mạo hiểm trong kinh doanh, nhất là nghiệp vụ đầu cơ.

Rủi ro hoạt động (RRHĐ), theo Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng, là rủi ro gây ra tổn thất do các nguyên nhân như con người, sự không đầy đủ hoặc vận hành không tốt các quy trình, hệ thống; các sự kiện khách quan bên ngoài. RRHĐ bao gồm cả rủi ro pháp lý nhưng loại trừ về rủi ro chiến lược và rủi ro uy tín, Basel Committee (2001). Thông qua các nguyên tắc của Ủy ban Basel II, và thực tiễn thành công cũng như thất bại của nhiều ngân hàng trên thế giới về quản trị RRHĐ, các nhà lãnh đạo NHTM cần thực hiện những yêu cầu sau nhằm hạn chế RRHĐ trong hoạt động KDNH:

Thứ nhất: Đối với các NHTM tại TP.HCM, tất cả các cấp từ HĐQT, BTGĐ, và tất cả các nhân viên đều phải nhận thức được tầm quan trọng của RRHĐ. HĐQT cần thuê tư vấn xây dựng khung quản trị RRHĐ phù hợp cho ngân hàng mình và

Xem tất cả 250 trang.

Ngày đăng: 03/05/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí