bị, tài sản đảm bảo. Hơn nữa việc đi thăm thực địa còn có thể kiểm chứng lại chất lượng và tính chính xác của các báo cáo tài chính.
- Giám sát tổng thể danh mục tín dụng - phân tích tổng thể danh mục tín dụng nhằm phát hiện tập trung tín dụng, đánh giá chất lượng của danh mục tín dụng, cần phải tiến hành phân tích tổng thể danh mục tín dụng một cách định kỳ, thường xuyên để có thể đưa ra những biện pháp kịp thời tránh cho ngân hàng phải gánh chịu những biến động bất lợi trong hoạt động tín dụng.
- Kiểm tra tiến độ thực hiện hợp đồng của khách hàng, kiểm tra dòng tiền của khách hàng chuyển qua tài khoản mở tại chi nhánh để biết được mức độ kinh doanh và dòng tiền của khách hàng
* Xây dựng mô hình kiểm tra nội bộ độc lập nhằm nâng cao khả năng quản lý rủi ro tín dụng
Hiện tại chi nhánh đã có cán bộ giám sát và hổ trợ tín dụng tuy nhiên bộ phận này đang chỉ thực hiện việc giải ngân và tập hợp hồ sơ, thu hồi nợ của chi nhánh như hiện nay đã làm hạn chế rất nhiều hiệu quả hoạt động của bộ phận này, đó là:
- Hoạt động của cán bộ giám sát và hổ trợ tín dụng chịu sự chỉ đạo và kiểm soát của lãnh đạo chi nhánh nên nếu lãnh đạo chi nhánh không quan tâm đến việc giám sát cán bộ giám sát và hổ trợ tín dụng sẽ không tập trung giám sát nội dung này mà sẽ tập trung vào các nội dung khác.
- Do nằm trong chi nhánh, lợi ích và thành tích của từng cán bộ giám sát và hổ trợ tín dụng phụ thuộc vào thành tích của chi nhánh nên bộ phận này có thể bao che những sai phạm trong vi phạm quy trình, quy chế phân tích tín dụng tại chi nhánh để chi nhánh đạt thành tích cao.
Vì vậy, ngân hàng cần tổ chức lại hệ thống kiểm tra nội bộ theo mô hình hệ thống kiểm tra nội bộ trực thuộc Maritime Bank, độc lập hoàn toàn với các chi nhánh nhằm đảm bảo tính khách quan trong kiểm tra, phát huy hiệu quả của hoạt động kiểm tra, giám sát nội bộ. Để thuận tiện cho hoạt động kiểm tra và theo dõi.
Có thể bạn quan tâm!
- Một Số Chỉ Tiêu Phản Ánh Tình Trạng Quá Hạn Của Ngân Hàng Tmcp Quốc Tế Việt Nam - Chi Nhánh Thái Nguyên, Giai Đoạn 2013-2016
- Đánh Giá Thành Công Và Hạn Chế Trong Quản Lý Rủi Ro Tín Dụng Của Ngân Hàng Tmcp Quốc Tế Việt Nam - Chi Nhánh Thái Nguyên
- Phương Hướng, Mục Tiêu Quản Lý Rủi Ro Tín Dụng Của Ngân Hàng Tmcp Quốc Tế Việt Nam - Chi Nhánh Thái Nguyên
- Quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam - Chi nhánh Thái Nguyên - 12
- Quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam - Chi nhánh Thái Nguyên - 13
Xem toàn bộ 104 trang tài liệu này.
* Có biện pháp khắc phục kịp thời những tồn tại do kiểm toán nội bộ, thanh tra ngân hàng Nhà Nước phát hiện về chất lượng tín dụng nhằm nâng cao khả năng quản lý rủi ro tín dụng
Chi nhánh cần nhìn nhận các cảnh báo của bộ phận kiểm toán nội bộ, cơ quan kiểm toán độc lập, thanh tra ngân hàng Nhà Nước về sự vi phạm quy trình quy chế phân tích tín dụng một cách nghiêm túc và có biện pháp khắc phục sau kiểm tra, kiểm toán một cách kịp thời. Hàng năm, chi nhánh luôn có các bộ phận kiểm toán nội bộ về kiểm tra, có các đợt thanh tra của ngân hàng Nhà Nước, vẫn thuê kiểm toán độc lập thực hiện kiểm toán toàn bộ hoạt động của ngân hàng, trong đó có hoạt động tín dụng. Cơ quan kiểm toán là đơn vị độc lập và chuyên nghiệp trong đánh giá, phân tích, do vậy ý kiến của kiểm toán thường có độ tin cậy cao. Trong thời gian qua, cơ quan kiểm toán độc lập cho chi nhánh đã có những đánh giá xác đáng về một số vi phạm trong chấm điểm khách hàng, phân tích tài chính cả khách hàng. Ngân hàng cần có biện pháp khắc phục để tránh lặp lại trong các năm sau.
4.2.4. Xây dựng chính sách đãi ngộ, tuyển dụng đào tạo hợp lý nhằm nâng cao chất lượng cán bộ tín dụng
Ngân hàng cần coi trọng công tác tín dụng và phẩm chất cán bộ tín dụng. Có chính sách tín dụng chi tiết rõ ràng, phân quyền phán quyết cụ thể,
quy định rõ chức năng nhiệm vụ cho từng bộ phận liên quan đến việc cho vay, thu nợ thậm chí là xử lý nợ... Việc bổ nhiệm các chức danh liên quan đến công tác cho vay phải thực sự khách quan, đúng quy trình, lựa chọn người có đủ năng lực và phẩm chất thực sự. Việc bố trí cán bộ tín dụng phải được chọn lọc và phù hợp với năng lực thực tế cũng như lĩnh vực công việc được phân công. Coi trọng công tác đào tạo, đào tạo lại cán bộ: từ nghiệp vụ chuyên môn tới phẩm chất đạo đức của người cán bộ. Bản thân cán bộ liên quan đến công tác cho vay phải luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp.
Hiện nay các cán bộ ngân hàng giỏi, cán bộ chủ chốt hoặc được đào tạo bài bản đều có xu hướng sang làm việc tại các chi nhánh ngân hàng nước ngoài, liên doanh tại Việt Nam, hoặc các NHTM cổ phần nhỏ mới thành lập. Lý do để các cán bộ này không tiếp tục làm việc tại VIB là xuất phát từ chính sách thu nhập và đãi ngộ đối với nhân viên còn hạn chế, chưa tạo động lực thu hút và khuyến khích người lao động. Đặc biệt, với đội ngũ chuyên gia giỏi, VIB cần có lộ trình thăng tiến, có cơ chế ưu đãi riêng để cho họ gắn bó máu thịt với nơi công tác. VIB có cơ chế tuyển dụng cạnh tranh bình đẳng và tuyển dụng được nhiều cán bộ trẻ có tài năng nhưng để tránh hiện tượng chảy máu chất xám ngân hàng cần có cơ chế khuyến khích đối với cán bộ như quản lý nhân viên theo đầu công việc, trả lương tính chất công việc (phân biệt giữa cơ chế lương của kế toán với cán bộ tín dụng, với nhân viên kinh doanh tiền tệ), tăng lương cho người lao động, tạo cơ hội cạnh tranh, thăng tiến bình đẳng đối với cán bộ... Điều quan tâm trước tiên đối với Ban lãnh đạo VIB là xây dựng xong chương trình văn hoá và tổ chức giáo dục đến từng cán bộ để hiểu đầy đủ về chương trình văn hoá đó.
Ngoài ra, VIB nên tạo điều kiện cho các cán bộ có năng lực, có khả năng nghiên cứu được đi học tập trung dài hạn ở trong và ngoài nước, nhất là nghiên cứu thực tế tại các Ngân hàng hiện đại để tiếp thu các kiến thức, các kinh nghiệm thực tế ứng dụng vào hoạt động của VIB, đồng thời gắn kết người lao động đối với ngân hàng. Đối với các cán bộ lãnh đạo, VIB nên thường xuyên tổ chức các buổi học tập về kỹ năng quản lý, làm việc theo nhóm để nâng cao khả năng quản lý và khả năng chuyên môn.
Định kỳ hàng quý, hàng nằm VIB nên tổ chức các buổi nói chuyện chuyên đề, tổng kết tập huấn nghiệp vụ để các cán bộ làm công tác quản lý tài sản có thể trao đổi, thảo luận những vướng mắc xuất phát từ thực tiễn công việc để từ đó rút kinh nghiệm nâng cao hiệu quả quản lý điều hành. Bên cạnh đó, đối với các lĩnh vực kinh doanh mới và then chốt, VIB có thể thuê chuyên gia nước ngoài để xây dựng, quản lý, chuyển giao và đào tạo cho cán bộ nhân viên của ngân hàng.
Công tác cán bộ bao giờ cũng là khâu quan trọng nhất góp phần tạo nên sự thành công của một tổ chức. Đối với lĩnh vực ngân hàng thì yếu tố con người càng có ý nghĩa quan trọng quyết định đến hiệu quả hoạt động trên hai phạm trù, đó là trình độ chuyên môn nghiệp vụ và đạo đức của người cán bộ ngân hàng. Vì vậy, để hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động quản lý tài sản ngân hàng nói riêng có hiệu quả thì cần phải quan tâm đến việc đào tạo, đào tạo lại và giáo dục đôi ngũ cán bộ ngân hàng trên hai khía cạnh đó
4.2.5. Tăng cường biện pháp tài trợ rủi ro tín dụng
Bảo hiểm có vị trí đặc biệt trong hệ thống quản lí rủi ro tín dụng của ngân hàng. Cơ sở của bảo hiểm ngân hàng là các nghĩa vụ chi trả bảo hiểm
cho các ngân hàng khi gặp sự cố rủi ro. Quản lí rủi ro tín dụng và bảo hiểm là các bộ phận không thể thiếu trong quan điểm an ninh kinh tế và ổn định kinh doanh. Bảo hiểm ngân hàng là một trong những sản phẩm chuẩn đối với các ngân hàng trên thị trường quốc tế
4.3. Kiến nghị
4.3.1. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước
Có thể nói thời gian qua NHNN đã có rất nhiều quy định để có thể giảm bớt những rủi ro trong hoạt động tín dụng của các ngân hàng. Vào năm 2005 lần đầu tiên có những văn bản quy định rõ về tiêu chuẩn an toàn vốn của NHTM. Quyết Định số 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19-4-2005 của Thống Đốc NHNN ban hành quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng đã quy định tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu lên 8%. Ngoài ra quyết định này cũng quy định khá rõ về vốn cấp 1 (vốn tự có), vốn cấp 2 (vốn bổ sung) và các mức độ rủi ro khác nhau của tài sản “có” rủi ro. Cũng ở quyết định này, NHNN quy định rõ tỷ lệ cho vay đối với một khách hàng và một nhóm khách hàng có liên quan và Tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung và dài hạn là 40%.
Tuy nhiên sự phát triển nhanh của ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam sau khi gia nhập WTO, đặc biệt vào năm 2006-2007 đòi hỏi những quy định về quản lý rủi ro trong ngành ngân hàng cần được nâng cao. Năm 2009 NHNN đã ban hành thông tư số 15/2009/TT-NHNN để nâng tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung hạn và dài hạn đối với công ty tài chính và công ty cho thuê tài chính là 30% (từ mức 40% trước đó), quỹ tín dụng nhân dân Trung ương 20% (từ mức 30% trước đó). NHNN cũng
xây dựng các yêu cầu cao về mức vốn tối thiểu của các NHTM, dự kiến nâng lên 5000 tỷ cho năm 2012 và 10.000 tỷ đồng vào năm 2015 cũng là một một cách tạo ra sự lành mạnh trong hoạt động của các NHTM.
Và tháng 5 vừa qua, NHNN lại có Thông tư 13/2010/TT-NHNN cải tổ toàn diện các quy định về kiểm soát an toàn vốn của các NHTM. Cụ thể NHNN đã nâng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu lên 9% (tăng 1%), quy định chặt chẽ về vốn cấp 1, vốn cấp 2, nâng tỷ lệ rủi ro một số khoản vay, và hạn chế mức cho vay 80%... Tuy có nhiều ý kiến về các quy định và thời điểm áp dụng nhưng điều này cho thấy NHNN đang cố gắng có những kiểm soát chặt chẽ hơn đối với những rủi ro có thể có của hoạt động ngân hàng. Tuy nhiên, với những rủi ro tín dụng ngân hàng luôn tiềm ẩn dù khách hay chủ quan, cũng xin nêu dưới đây một số kiến nghị sau:
Nâng cao chất lượng quản lý, điều hành
Nâng cao vai trò định hướng trong quản lý và tư vấn cho các NHTM thông qua việc thường xuyên tổng hợp, phân tích thông tin thị trường, đưa ra các nhận định và dự báo khách quan, mang tính khoa học, đặc biệt là liên quan đến hoạt động tín dụng để các NHTM có cơ sở tham khảo, định hướng trong việc hoạch định chính sách tín dụng của mình sao cho vừa đảm bảo phát triển hợp lý, vừa phòng ngừa được rủi ro.
Tiếp tục hoàn thiện quy chế cho vay, đảm bảo tiền vay trên cơ sở bảo đảm an toàn cho hoạt động tín dụng, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các NHTM, quy định chặt chẽ về trách nhiệm của các NHTM về việc tuân thủ quy chế cho vay và bảo đảm tiền vay, hạn chế bớt các thủ tục pháp lý phức tạp, gây khó khăn cho các NHTM.
Ngân hàng Nhà nước cần phối hợp với các bộ ngành có liên quan trong quá trình xử lý nợ xấu, tập trung tháo gở những khó khăn vướng mắc trong thủ tục phát mãi tài sản. Nên có những hướng dẫn cụ thể về trình tự, thủ tục, trách nhiệm của Tổ chức Tín dụng, của cơ quan Công an, của Chính quyền cơ sở, của Sở Tài nguyên Môi trường làm cơ sở pháp lý để đi đến ban hành thông tư liên ngành hướng dẫn thêm nhằm nâng cao hiệu quả công tác phối hợp đẩy nhanh tiến độ, cụ thể hóa từng công việc trong thi hành án.
Nghiên cứu, ban hành các quy định cụ thể để các NHTM áp dụng chuẩn xác, kịp thời các công cụ bảo hiểm cho hoạt động tín dụng như: bảo hiểm tiền vay, quyền chọn và các công cụ tài chính phái sinh khác. Đồng thời, tổ chức đào tạo, hướng dẫn các nghiệp vụ trên để giúp các NHTM vừa đa dạng hóa các sản phẩm tín dụng, vừa phòng ngừa và phân tán rủi ro trong hoạt động tín dụng.
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm soát
Thực hiện thường xuyên công tác thanh tra, kiểm soát dưới nhiều hình thức để kịp thời phát hiện và ngăn chặn những vi phạm tiêu cực trong hoạt động tín dụng nhằm đưa hoạt động tín dụng của ngân hàng vào đúng quỹ đạo luật pháp.
Chương trình thanh tra cần được xây dựng chi tiết, khoa học, thông tin được thu thập cần phân tích kỹ lưỡng, tránh mang tính hình thức, nội dung thanh tra nên được cải tiến sao cho chương trình thanh tra đảm bảo kiểm soát được NHTM, thể hiện được vai trò của mình là cảnh báo, ngăn chặn và phòng ngừa rủi ro và không gây ảnh hưởng đến các hoạt động của các NHTM.
Cần xây dựng phương án bổ sung hoặc hoán đổi cán bộ thanh tra giữa các chi nhánh Ngân hàng Nhà nước nước để đảm bảo tính khách quan và tạo môi trường hoạt động đa dạng cho cán bộ thanh tra, kiểm tra trau dồi nghiệp vụ.
Cần phải xây dựng đội ngũ thanh tra, giám sát chuẩn về nghiệp vụ ngân hàng, nghiệp vụ kiểm tra, có phẩm chất đạo đức tốt, được cập nhật thông tin về chính sách, pháp luật, thị trường để một mặt thực hiện công tác thanh tra, giám sát hoạt động của các NHTM, mặt khác có thể đưa ra các nhận định, kết luận giúp NHTM nâng cao hiệu quả hoạt động.
Ngân hàng Nhà nước phải theo dõi chặt chẽ việc sửa đổi, bổ sung những kiến nghị của Thanh tra Ngân hàng Nhà nước nhằm đảm bảo hiệu lực và hiệu quả của công tác thanh tra.
Hiện nay hoạt động thanh tra ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước chủ yếu là kiểm tra tính tuân thủ pháp luật trong hoạt động của ngân hàng và đánh giá về sự an toàn của NHTM. Về việc đánh giá hệ thống kiểm soát rủi ro của các NHTM thì Thanh tra Ngân hàng Nhà nước chưa thực hiện việc này một cách có hệ thống, chưa có tiêu chí để thực hiện việc đánh giá này và chưa thực sự đánh giá toàn diện, kiến nghị cụ thể về hệ thống kiểm soát rủi ro của các NHTM qua các cuộc thanh tra. Vì vậy, để thanh tra Ngân hàng Nhà nước thực hiện được vai trò đánh giá hệ thống kiểm soát rủi ro của NHTM, cần phải xây dựng tiêu chí cụ thể về đánh giá rủi ro khi thực hiện thanh tra, nội dung hoạt động ngoài thanh tra tuân thủ cần có sự giám sát, theo dõi rủi ro và tiến tới xây dựng hệ thống giám sát từ xa của Thanh tra ngân hàng thông qua mạng thông tin trực tuyến với các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, điều này đòi hỏi công nghệ cao và quy chế nghiêm ngặt về bảo mật thông tin để bảo vệ bí mật kinh doanh của các NHTM.