- Phân loại theo quan điểm của ủy ban Basel gồm có các loại:
+ Rủi ro thị trường, bao gồm các loại cụ thể như rủi ro lãi suất (Interest RateRisk), rủi ro ngọai hối (Foreign Currency Risk), rủi ro vốn (Equity Risk), rủi ro quyền chọn (Option Risk), rủi ro hàng hóa (Commodity Risk). Rủi ro thị trường được hiểu là khả năng tổn thất xảy ra trong và ngoài bảng cân đối kế toán (Balance Sheet) của ngân hàng phát sinh từ các biến động giá trên thị trường. Rủi ro thị trường là cộng gộp của các loại rủi ro bộ phận đã nêu trên.
+ Rủi ro tín dụng (Credit Risk) là khả năng xảy ra tổn thất khi có sự vi phạm từ phía đối tác của ngân hàng. Theo quan điểm của Ủy ban Basel thì RRTD có thể hiểu là rủi ro đối tác (Counterparty Risk) xuất hiện khi có sự vi phạm các thỏa thuận giữa ngân hàng và đối tác trong giao dịch của họ.
+ Rủi ro hoạt động/tác nghiệp (Operational Risk) được hiểu là khả năng xảy ra tổn thất do các nguyên nhân nội bộ (quy trình, hệ thống, vận hành…) và nguyên nhân khách quan bên ngoài (như gian lận chẳng hạn). (Nguồn: Bùi Diệu Anh, 2013).
Theo Khúc Quang Huy, Rủi ro xét về nguyên nhân khách quan, có:
- Rủi ro thị trường: Rủi ro mà do sự biến động của thị trường theo hướng bất lợi cho ngân hàng. Rủi ro thị trường là nguyên nhân gây ra các thiệt hại chủ yếu về thu nhập và tác nhân kích thích khách hàng có các phản ứng bất lợi cho ngân hàng.
- Rủi ro về giá cả: Đây là rủi ro về việc giá trị các tài sản của một ngân hàng có thể biến động. Rủi ro này xuất hiện đối với tất cả các chủng loại tài sản, từ bất động sản đến cổ phiếu và trái phiếu…; có thể là do sự biến động về lãi suất trên thị trường. Khi có sự biến động về lãi suất hoặc một mặt sẽ gây bất lợi cho tài sản Nợ, mặt khác sẽ có lợi cho tài sản Có, hoặc ngược lại; có thể là do sự biến động giá cả các loại chứng khoán ngân hàng đang nắm giữ hoặc sẽ mua bán theo các hợp đồng mua bán chứng khoán. (Nguồn: Khúc Quang Huy, 2013)
Cũng theo Khúc Quang Huy rủi ro xét về quản trị điều hành, có:
- Rủi ro thanh khoản: Rủi ro xảy ra khi có sự biến động về tình hình kinh tế - xã hội, chính trị hoặc có khi do những thông tin bất lợi đối với uy tín của ngân hàng, người dân ồ ạt đổ xô đi rút tiền ra khỏi ngân hàng làm ngân hàng mất khả năng thanh toán trầm trọng dẫn tới phá sản, thậm chí là phá sản cả ngành ngân hàng của một quốc gia.
Có thể bạn quan tâm!
- Quản lý rủi ro tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam - 2
- Đề Tài Nghiên Cứu Khoa Học Cấp Ngành Ngân Hàng
- Những Vấn Đề Cơ Bản Về Quản Lý Rủi Ro Tín Dụng Của Ngân Hàng Thương Mại.
- Quản Lý Rủi Ro Tín Dụng Của Ngân Hàng Thương Mại
- Nhận Biết, Phân Tích Và Đo Lường Rủi Ro Tín Dụng
- Hoàn Thiện Chiến Lược, Chính Sách Và Quy Trình Tín Dụng
Xem toàn bộ 269 trang tài liệu này.
- Rủi ro lãi suất: Rủi ro lãi suất trong hoạt động ngân hàng là rủi ro phát sinh do sự thay đổi lãi suất làm ảnh hưởng đến doanh thu và chi phí kỳ vọng của ngân hàng. Ngân hàng là định chế tài chính trung gian nên nguồn vốn huy động chiếm tỷ trọng lớn
trong tổng nguồn vốn của ngân hàng, khoản cho vay chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản. Chính vì thế rủi ro lãi suất của ngân hàng còn cao hơn cả doanh nghiệp.
- Rủi ro hoạt động: Rủi ro hoạt động bao gồm toàn bộ các rủi ro có thể phát sinh từ cách thức mà một ngân hàng điều hành các hoạt động của mình. Ví dụ như: Việc cấu trúc hạn mức không phù hợp trong lĩnh vực kinh doanh nguồn vốn, quản trị kém các quy trình quản lý tín dụng, cán bộ tham ô, thiếu các kế hoạch khôi phục kinh doanh trong trường hợp xảy ra thảm họa… (Nguồn: Khúc Quang Huy, 2013).
c. Khái niệm rủi ro tín dụng
Có một số tài liệu, cuốn sách, giáo trình,... nêu lên các khái niệm khác nhau về RRTD. Mỗi khái niệm có cách diễn đạt và phân tích khác nhau.
Theo Nguyễn Kim Anh (2010): “Rủi ro tín dụng phải được hiểu ở cả hai góc độ, rủi ro trong huy động vốn và rủi ro trong cho vay”; Trong đó, “Rủi ro trong là khoản tổn thất phát sinh khi cấp tín dụng cho khách hàng mà chỉ thu được một phần gốc và lãi, hoặc thu gốc và lãi không đúng hạn, hoặc không thu được gốc và lãi”.
Theo hai nhà kinh tế A. Saunder và H. Lange (1999): “Financial Institutions Management - A Modern Perpective” thì RRTD được định nghĩa là “khoản lỗ tiềm tàng khi ngân hàng cấp tín dụng cho một khách hàng, nghĩa là khả năng các luồng thu nhập dự tính mang lại từ khoản cho vay của ngân hàng không thể được thực hiện đầy đủ về cả số lượng và thời gian”.
Theo quan niệm của ủy ban Basel thì “Rủi ro tín dụng là khả năng khách hàng vay hoặc bên đối tác của ngân hàng không thực hiện đúng cam kết đã thỏa thuận” (Nguồn: Basel Committee on Banking Supervision, September 2000). Theo khái niệm này thì RRTD có phạm vi khá rộng, không chỉ trong quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với khách hàng mà trong cả các hoạt động khác như đầu tư, phái sinh mà ngân hàng thực hiện. Tuy nhiên, như đã giới thiệu trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, luận án chỉ nghiên cứu RRTD trong hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng, vì vậy RRTD có thể hiểu đơn giản là sự vi phạm không hoàn trả nợ từ phía khách hàng vay.
Theo cách hiểu tại các ngân hàng Việt Nam (2005, 2013), thì “Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của TCTD do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết”. (Nguồn: NHNN Việt Nam, 2005, 2013).
Tại Điều 3, Thông tư số 02/2013/TT-NHNN ngày 21/1/2013 của NHNN (Thông tư 02) cũng nêu rõ: “Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng (sau đây gọi tắt là rủi
ro) là tổn thất có khả năng xảy ra đối với nợ của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài do khách hàng không thực hiện, hoặc không có khả năng thực hiện một phần hay toàn bộ nghĩa vụ của mình theo cam kết”. (Nguồn: NHNN Việt Nam, 2005, 2013).
Tuy nhiên, theo quan điểm của luận án thì khái niệm hay quan niệm nói trên, chỉ đổ cho một nguyên nhân đó là do khách hàng không thực hiện, hay không có khả năng thực hiện nghĩa vụ, mà trong thực tế có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân từ chính quy định nội bộ của ngân hàng, từ công tác kiểm tra kiểm soát của ngân hàng, hay khách hàng đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình theo cam kết nhưng do cán bộ ngân hàng trực tiếp thu nợ và thu lãi sử dụng cho mục đích riêng tư không nộp vào ngân hàng, hay khách hàng đã trả đủ gốc và lãi cho ngân hàng theo đúng cam kết nhưng cán bộ ngân hàng thông đồng với nhau chuyển khoản số tiền đó sang mục đích khác,… Mặc dù vậy, cuối cùng về bản chất, thực sự do nguyên nhân nào đi nữa, thì đều thể hiện về bản chất đó là khoản tổn thất theo cam kết trên hợp đồng tín dụng.
Do đó, để thống nhất cách nhận thức và phân tích xuyên suốt trong toàn bộ nội dung luận án, nghiên cứu sinh đồng tình với khái niệm về RRTD được nêu trong văn bản pháp quy nói trên của NHNN. Khái niệm này đã được trao đổi, thảo luận của các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu, hoạch định chính sách,... trong quá trình ban hành văn bản pháp quy này.
1.1.2.2. Phân loại rủi ro tín dụng
Theo Nguyễn Văn Tiến, RRTD được phân thành 2 nhóm chính: rủi ro giao dịch và rủi ro danh mục.
Hình 1.1. Phân loại rủi ro tín dụng
RỦI RO GIAODỊCH
RỦI RO LỰA CHỌN
RỦI RO BẢO ĐẢM
RỦI RO NGHIẸP VỤ
RỦI RO NỘI TẠI
RỦI RO TẬP TRUNG
RỦI RO TÍN DỤNG
RỦI RO DANH MỤC
Nguồn: Nguyễn Văn Tiến, 2005
- Rủi ro giao dịch: Là một hình thức của RRTD mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong quá trình giao dịch và xét duyệt cho vay, đánh giá khách hàng. Rủi ro giao dịch có ba bộ phận:
+ Rủi ro lựa chọn: Là rủi ro liên quan đến quá trình đánh giá phân tích tín dụng, khi ngân hàng lựa chọn phương án vay vốn có hiệu quả để ra quyết định cho vay.
+ Rủi ro bảo đảm: Là rủi ro phát sinh từ các tiêu chuẩn đảm bảo như các điều khoản trong hợp đồng cho vay, các loại TSBĐ, chủ thể đảm bảo, cách thức đảm bảo và mức cho vay trên trị giá của TSBĐ.
+ Rủi ro nghiệp vụ: Là rủi ro liên quan đến công tác quản lý khoản vay và hoạt động cho vay, bao gồm cả việc sử dụng hệ thống xếp hạng rủi ro và kỹ thuật xử lý các khoản cho vay có vấn đề.
- Rủi ro danh mục: Là một hình thức của RRTD mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong quản lý danh mục cho vay của ngân hàng, được phân chia thành hai loại: Rủi ro nội tại (Intrinsic) và rủi ro tập trung (Concentration risk):
+ Rủi ro nội tại: Là rủi ro xuất phát từ các yếu tố, các đặc điểm riêng có mang tính riêng biệt bên trong của mỗi chủ thể đi vay hoặc ngành, lĩnh vực kinh tế. Nó xuất phát từ đặc điểm hoạt động hoặc đặc điểm sử dụng vốn của khách hàng vay vốn.
+ Rủi ro tập trung: Là trường hợp ngân hàng tập trung vốn cho vay quá nhiều đối với một số khách hàng, cho vay quá nhiều doanh nghiệp hoạt động trong cùng một ngành, lĩnh vực kinh tế; hoặc trong cùng một vùng địa lý nhất định; hoặc cùng một loại hình cho vay có rủi ro cao.
(Nguồn: Nguyễn Văn Tiến, 2005).
1.1.2.3. Nguyên nhân rủi ro tín dụng
Theo Nguyễn Kim Anh, RRTD là do các nguyên nhân sau đây:
a. Nguyên nhân khách quan từ môi trường bên ngoài
- Nguyên nhân bất khả kháng: Thiệt hại do thiên tai, bão lụt, hạn hán, hỏa hoạn và động đất gây ra, thay đổi về nhu cầu của người tiêu dùng, lạc hậu khoa học kỹ thuật một ngành công nghiệp ảnh hưởng hoạt động kinh doanh người đi vay,…
- Thông tin bất cân xứng: Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính dẫn đến sự lựa chọn đối nghịch dẫn đến rủi ro cho cả người đi vay và ngân hàng cho vay.
- Môi trường kinh tế: Tình hình lạm phát, lãi suất, tỷ giá, sức mua nền kinh tế có ảnh hưởng mạnh đối với người đi vay và ngân hàng cho vay.
- Môi trường pháp lý: Cùng với môi trường kinh tế, môi trường pháp lý tạo nên môi trường cho vay của các NHTM. Một sự thay đổi chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa, các qui định ngành liên quan cũng sẽ ảnh hưởng hoạt động kinh doanh cả người đi vay và ngân hàng. Môi trường cho vay có thể ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực, có thể làm hạn chế hay tăng thêm rủi ro đối với hoạt động kinh doanh tín dụng của các NHTM.
b. Nguyên nhân từ phía người vay
- Nguyên nhân từ phía người đi vay: Là một trong những nguyên nhân chính gây ra RRTD cho ngân hàng. Nhìn chung các nguyên nhân này ngân hàng có thể xác định được thông qua quá trình tìm hiểu, nắm vững “tình hình sức khỏe của khách hàng” cả trước, trong và sau khi cho vay, tìm hiểu mục đích sử dụng tiền vay và hiệu quả của phương án sản xuất kinh doanh.
- Rủi ro trong kinh doanh của người đi vay: Rủi ro kinh doanh của doanh nghiệp được thể hiện ở mức độ biến động ít hay nhiều theo chiều hướng xấu của kết quả kinh doanh. Rủi ro trong kinh doanh của doanh nghiệp sẽ xảy ra nếu việc xây dựng và triển khai các phương án, dự án đầu tư sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không khoa học, việc dự toán chi phí và xác định mức sản lượng không phù hợp. Các thiệt hại doanh nghiệp phải gánh chịu do sự biến động của thị trường cung cấp, thị trường tiêu thụ.
- Rủi ro tài chính: Rủi ro tài chính của doanh nghiệp thể hiện ở các doanh nghiệp không thể đối phó với các nghĩa vụ trả nợ gốc và lãi tiền vay cho chủ nợ. Rủi ro tài chính diễn ra cùng với mức độ sử dụng nợ, nó gắn liền với cơ cấu tài chính doanh nghiệp.
c. Nguyên nhân do ngân hàng
Chính sách tín dụng không hợp lý, quá nhấn mạnh vào lợi nhuận ngân hàng nên khi cho vay quá chú trọng về lợi tức. Cán bộ tín dụng không tuân thủ chính sách tín dụng, không chấp hành đúng quy trình cho vay. Cán bộ tín dụng vi phạm đạo đức kinh doanh. Giá trị tài sản không đảm bảo không chính xác, hoặc không thực hiện đầy đủ thủ tục pháp lý cần thiết. Sự cạnh tranh của các ngân hàng mong muốn có tỷ trọng cho vay nhiều hơn các ngân hàng khác.
d. Nguyên nhân từ các đảm bảo tín dụng
Do sự biến động giá trị TSBĐ theo chiều hướng bất lợi (phụ thuộc vào đặc tính của tài sản và thị trường giao dịch các tài sản đó). Có 3 yêu cầu đối với các bảo đảm tài sản là: (1) dễ được định giá; (2) dễ cho ngân hàng quyền được sở hữu hợp pháp; (3) dễ tiêu thụ hay thuận tiện.
(Nguồn: Nguyễn Kim Anh, 2010)
1.1.2.4. Tác động của rủi ro tín dụng đối với ngân hàng và nền kinh tế
a. Ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng
Khi RRTD xảy ra, NHTM không thu hồi được đủ số vốn và lãi đã cho vay, nhưng ngân hàng phải trả vốn và lãi cho khoản tiền huy động. Khi đến hạn hoàn trả tiền gửi cho khách hàng, điều này sẽ làm cho NHTM có nguy cơ bị mất cân đối trong việc thu chi, cân đối vốn, ảnh hưởng tới thanh khoản, vòng quay vốn tín dụng giảm, làm cho NHTM kinh doanh không hiệu quả, chi phí của ngân hàng tăng lên so với dự kiến.
Nếu một khoản vay nào đó không thu hồi được thì NHTM phải sử dụng các nguồn vốn của mình để trả cho người gửi tiền, đến một chừng mực nào dẫn tới ngân hàng có nguy cơ không có đủ nguồn vốn để trả cho người gửi tiền, ngân hàng sẽ rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán, có thể dẫn đến nguy cơ gặp rủi ro thanh khoản. Hậu quả của tình hình đó là làm thu hẹp quy mô kinh doanh, năng lực tài chính giảm sút; uy tín, sức cạnh tranh giảm. Nguy cơ đó không những xảy ra đối với chính từng NHTM đó mà còn có thể ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống NHTM; kết quả kinh doanh của NHTM ngày càng xấu có thể dẫn ngân hàng đến thua lỗ hoặc đưa đến nguy cơ phá sản nếu không có biện pháp xử lý, khắc phục kịp thời.
b. Ảnh hưởng đến nền kinh tế xã hội
Bắt nguồn từ bản chất và chức năng của NHTM là một tổ chức trung gian tài chính, thực hiện các nghiệp vụ huy động vốn trong nền kinh tế, huy động vốn ngoài nước để cho các tổ chức, các doanh nghiệp, các tổ chức và cá nhân có nhu cầu vay, đầu tư. Thực chất quyền sở hữu những khoản cho vay là quyền sở hữu của người đã gửi tiền vào NHTM. Bởi vậy, khi RRTD xảy ra thì không những NHTM chịu thiệt hại mà quyền lợi của người gửi tiền cũng bị ảnh hưởng.
Khi một NHTM gặp phải RRTD, mất khả năng thanh toán, bị phá sản thì ảnh hưởng có tính chất dây chuyền, làm cho người gửi tiền ở các NHTM khác cũng
hoang mang, lo lắng, có thể kéo đến rút tiền ồ ạt ở các NHTM khác, làm cho toàn bộ hệ thống NHTM gặp phải khó khăn, có thể gây ra khủng hoảng thanh khoản toàn hệ thống.
NHTM phá sản sẽ ảnh hưởng đến tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp không có nguồn tài trợ vốn, không có khả năng vay, không nhận được các khoản thanh toán tiền gửi, không có tiền trả lương dẫn đến đời sống công nhân gặp khó khăn. Hơn nữa, sự hoảng loạn của các NHTM ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ nền kinh tế, như các vấn đề suy thoái, giá cả tăng, sức mua giảm, thất nghiệp tăng, xã hội mất ổn định.
1.1.2.5. Biểu hiện rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại
Nguyễn Văn Tiến cho rằng: Biểu hiện RRTD từ góc độ quản lý của NHTM có thể thấy khái quát ở các sơ đồ dưới đây:
Hình 1.2. Biểu hiện của rủi ro tín dụng
Không thu được vốn đúng hạn
Không thu
đủ lãi
RỦI RO TÍN DỤNG
Không thu được lãi
đúng hạn
Không thu đủ
vốn vay
Phát sinh lãi treo
Phát sinh nợ quá hạn
Phát sinh lãi treo
đóng băng
Phát sinh nợ khó đòi
Thanh khoản giảm, hiệu quả kinh doanh giảm, thất thoát vốn, phá sản
Nguồn: Nguyễn Văn Tiến, 2003.
Như vậy, biểu hiện RRTD thể hiện chung nhất là khách hàng không cam kết thực hiện được như hợp đồng tín dụng, bao gồm thu nợ gốc, thu lãi.
Trong điều kiện ngày nay, thị trường tài chính quốc tế phát triển mạnh mẽ, cùng với sự đổi mới nhanh chóng của các công cụ tài chính đã cung cấp hàng loạt các dịch vụ sản phẩm mới. Xu hướng mang lại lợi nhuận từ hoạt động tín dụng
không còn hấp dẫn như trước đây, nhưng có thể nói trong hiện tại cũng như tương lai, nghiệp vụ tín dụng vẫn là cơ bản và cốt lõi của NHTM. Vì vậy, việc nâng cao chất lượng quản lý NHTM trở thành vấn đề cấp bách và đòi hỏi có những thay đổi đáng kể trong cách thức tiếp cận với quá trình quản lý của hoạt động NHTM.
Hình 1.3. Quy trình phát sinh rủi ro tín dụng tại NHTM
Khả năng thanh toán suy giảm, hiệu quả sản xuất
kinh doanh giảm, thất thoát vốn, phá sản
Không thu
được lãi
Không thu được
vốn cho vay
Không thu đủ
lãi
Không thu đủ
vốn cho vay
Phát sinh lãi
treo
Phát sinh nợ
quá hạn
Phát sinh lãi treo đóng
băng
Phát sinh nợ
khó đòi
Rủi ro rín dụng
Nguồn: Nguyễn Văn Tiến, 2003.
Vấn đề RRTD và quản lý RRTD cũng cần được nghiên cứu và xem xét đến trong mối tương quan với những thay đổi của thị trường tài chính và phương thức quản trị trung gian tài chính. Có nhiều cách tiếp cận khác nhau, nhưng nhìn chung có thể coi, RRTD là sự rủi ro, tổn thất về tài chính (trực tiếp hoặc gián tiếp) xuất phát từ người đi vay không thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ đúng hạn theo cam kết hoặc mất khả năng thanh toán. Điều này cũng có nghĩa là các khoản thanh toán bao gồm cả phần gốc cũng như lãi như cam kết sẽ có thể bị trì hoãn hoặc thậm chí là không được hoàn trả và hậu quả là sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự luân chuyển tiền tệ và sự bền vững của NHTM.
RRTD chỉ giới hạn ở hoạt động cho vay mà còn bao gồm nhiều hoạt động mang tính chất tín dụng khác của NHTM như: Bảo lãnh, cam kết thanh toán, chấp thuận tài trợ thương mại, đồng tài trợ, cho thuê mua… (Nguồn: Nguyễn Văn Tiến, 2003).