thường xuyên nghiên cứu công tác quản lý rủi ro nói chung và RRTD nói riêng, nghiên cứu sinh nhận thấy nghiên cứu này có thể sẽ đóng góp tích cực cho Agribank tăng cường quản lý RRTD theo mục tiêu chiến lược đề ra.
8. Những hạn chế trong nghiên cứu
Nội dung nghiên cứu của luận án được thực hiện trong điều kiện, thời gian, khả năng nghiên cứu của một nghiên cứu sinh là chủ yếu và ngân sách cá nhân sử dụng cho nghiên cứu có hạn, trong khi lĩnh vực nghiên cứu về quản lý RRTD nói chung và quản trị RRTD tại Agribank nói riêng là rất rộng lớn, phức tạp và liên quan đến nhiều ngân hàng, nhiều lĩnh vực đầu tư vốn và nhiều đối tượng khách hàng, nhiều văn bản pháp luật của Nhà nước, của ngành ngân hàng và các cấp, các ngành khác có liên quan. Do đó, để có được một nghiên cứu tổng hợp, logic cho các NHTM trong cả nước đòi hỏi cần phải có một nghiên cứu rộng hơn, sâu hơn và đặc biệt là cần nhiều thời gian dài với lực lượng nghiên cứu lớn hơn, kinh phí phù hợp. Đồng thời, nội dung nghiên cứu của luận án này dựa trên một NHTM nhà nước, hoạt động tín dụng chủ yếu là nông nghiệp - nông thôn, trong khi đó các NHTM Việt Nam khá đa dạng và hiện nay chủ yếu là NHTM CP, với các nhóm khác nhau về quy mô vốn điều lệ, về tỉ trọng sở hữu vốn của Nhà nước và các cổ đông khác, khách hàng truyền thống và thị trường tuyền thống do đó khó có thể bao quát.
9. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, danh mục biểu bảng, kết luận, danh mục công trình khoa học liên quan của các tác giả đã được công bố, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung chính của luận án được kết cấu thành ba chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về quản lý rủi ro tín dụng của Ngân hàng Thương mại.
Chương 2: Thực trạng quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp tăng cường quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam.
Có thể bạn quan tâm!
- Quản lý rủi ro tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam - 1
- Quản lý rủi ro tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam - 2
- Đề Tài Nghiên Cứu Khoa Học Cấp Ngành Ngân Hàng
- Tác Động Của Rủi Ro Tín Dụng Đối Với Ngân Hàng Và Nền Kinh Tế
- Quản Lý Rủi Ro Tín Dụng Của Ngân Hàng Thương Mại
- Nhận Biết, Phân Tích Và Đo Lường Rủi Ro Tín Dụng
Xem toàn bộ 269 trang tài liệu này.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại
1.1.1. Hoạt động tín dụng ngân hàng
1.1.1.1. Khái niệm tín dụng
Theo Vũ Văn Hóa và cộng sự (2007), tín dụng với quan niệm chung nhất đó là quan hệ vay mượn có hoàn trả, có mục đích và có thời hạn, ra đời, tồn tại qua nhiều hình thái kinh tế - xã hội khác nhau, với mức độ phát triển khác nhau. Khi chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất được hình thành, cũng đồng thời xuất hiện quan hệ trao đổi hàng hóa, tư liệu sản xuất,… giữa các chủ thể khác nhau. Thời kỳ này, tín dụng được thực hiện dưới hình thức vay mượn bằng hiện vật - hàng hóa. Theo tiến trình phát triển của lịch sử, tín dụng đã dần chuyển sang hình thức vay mượn bằng tiền tệ.
Thực chất, tín dụng là biểu hiện mối quan hệ kinh tế gắn liền với quá trình tạo lập và sử dụng một khoản tiền vốn nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu vốn tạm thời cho quá trình tái sản xuất và đời sống, theo nguyên tắc có hoàn trả, có mục đích, có bảo đảm bằng các hình thức khác nhau, bao gồm cả tín chấp, lòng tin lẫn nhau,…
Khi NHTM chính thức ra đời và phát triển, tín dụng thực sự là hoạt động chính, được xem như một chức năng cơ bản. Hầu hết dư nợ tín dụng ở các NHTM chiếm tỷ lệ rất cao trong tổng tài sản có và thu nhập của NHTM.
Theo Luật các TCTD năm 2010 (Luật số: 47/2010/QH12) thì một số thuật ngữ có liên quan được quy định như sau: “Cấp tín dụng là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác”. (Nguồn: Quốc hội, 2010, Luật các Tổ chức tín dụng).
“Cho vay là hình thức cấp tín dụng, theo đó bên cho vay giao hoặc cam kết giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi”.
Từ những nội dung trình bày ở trên, theo quan điểm của luận án, tín dụng ngân hàng được hiểu như sau: Tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hóa) giữa bên cho vay (ngân hàng) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể
kinh tế khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn (gốc) và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
1.1.1.2. Bản chất tín dụng
Tín dụng là sự chuyển giao quyền sử dụng một số tiền hoặc tài sản (hiện vật) từ chủ thể này sang chủ thể khác, chứ không làm thay đổi quyền sở hữu chúng. Tín dụng bao giờ cũng có thời hạn và phải hoàn trả cả vốn (gốc) và lãi vay, giá trị tín dụng không những được bảo toàn mà còn được nâng cao nhờ lợi tức tín dụng.
Hoạt động tín dụng là hoạt động cơ bản, hoạt động truyền thống đối với hầu hết các NHTM. Đặc trưng bản chất của tín dụng là tiềm ẩn rủi ro cao.
Cơ sở quyết định một khoản tín dụng là lòng tin của ngân hàng về khả năng thanh toán của khách hàng, là sự tín nhiệm, sự tin tưởng lẫn nhau hay có hình thức bảo đảm tín dụng phù hợp.
1.1.1.3. Nguyên tắc tín dụng
Khách hàng phải sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng; khi có nhu cầu vay vốn thì khách hàng phải có phương án cụ thể và thuộc đối tượng được ngân hàng xem xét cho vay.
Khách hàng phải hoàn trả nợ gốc và lãi vay đúng hạn đã thỏa thuận trong hợp
đồng tín dụng.
Để có nguồn tiền cho vay, ngân hàng phải thực hiện huy động từ nguồn tiền nhàn rỗi trong dân cư và các tổ chức kinh tế, tất cả những khoản tiền huy động được đều phải trả lãi và có thời gian trả nợ nhất định. Vì vậy, khách hàng vay vốn của ngân hàng khi đến hạn mà không trả được gốc và lãi cho ngân hàng thì ngân hàng sẽ ra sao? Ngân hàng sẽ thật sự khó khăn trong khả năng thanh toán của mình vì không có tiền chi trả cho khách hàng (gốc và lãi tiền gửi) và sẽ bị mất lòng tin trong dân chúng. Nếu một ngân hàng nào đó không chi trả được khi có một số ít khách hàng đến rút tiền thì có thể trông chờ vào sự trợ giúp từ sự chỉ đạo của chính phủ và NHNN như vậy ngân hàng vẫn giữ được an toàn. Nhưng khi đã mất lòng tin trong dân chúng quá lớn thì hầu hết các khách hàng tiền gửi đều đến rút tiền dẫn đến ngân hàng chắc chắn sẽ khó khăn, khi đó cho dù một ngân hàng nào mạnh đi nữa cũng sẽ buộc phải đóng cửa, theo đó sẽ lây lan sang các ngân hàng khác như vết dầu loang
bao trùm lên tất cả các NHTM và tạo thành phản ứng dây chuyền sụp đổ, nền kinh tế sẽ rối loạn.
Hoàn trả tín dụng là điều kiện quan trọng nhất để thực hiện mục tiêu kinh doanh của ngân hàng. Để thu hồi được nợ vay một cách đầy đủ, ngân hàng phải thẩm định một cách thận trọng đến phương án kinh doanh, năng lực tài chính, uy tín của khách hàng để áp dụng phương pháp cho vay thích hợp. Để hạn chế rủi ro, ngân hàng cho vay đối với khách hàng phải có TSBĐ (có thể cho vay tín chấp đối với khách hàng truyền thống, có uy tín lâu dài), vì đó là nguồn thu nợ thứ hai khi mà khách hàng làm ăn thua lỗ thì ngân hàng vẫn thu hồi được nợ vay từ việc phát mại TSBĐ của khách hàng.
1.1.1.4. Các hình thức tín dụng của ngân hàng thương mại
a. Theo mục đích vay
Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn vay của khách hàng, cho vay thường được chia ra làm các loại sau:
- Cho vay bất động sản: Là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây dựng bất động sản như: Nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
- Cho vay công nghiệp và thương mại: Là các khoản cho vay ngắn hạn để bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp để trang trải các chi phí như: Mua hàng hóa, nguyên vật liệu, chi trả lương…
- Cho vay nông nghiệp: Là các khoản cho vay để đáp ứng các chi phí trong lĩnh vực nông nghiệp như: Phân bón, giống cây trồng, thức ăn gia súc… nhằm trợ giúp các hoạt động trồng trọt, thu hoạch mùa màng và chăn nuôi gia súc.
- Cho vay cá nhân: Là các khoản tín dụng cấp cho các cá nhân với mục đích chủ yếu là mua sắm, tiêu dùng, đầu tư nhỏ lẻ…
- Cho vay các định chế tài chính: Là khoản tín dụng cấp cho các ngân hàng, công ty bảo hiểm, công ty tài chính và các tổ chức tài chính khác.
Việc xác định chính xác và phân loại mục đích vay, sử dụng vốn vay của khách hàng rất quan trọng đối với ngân hàng trong việc quản lý chất lượng tín dụng cũng như RRTD. Dựa trên cơ cấu của các lĩnh vực vay khác nhau, ngân hàng sẽ cân đối và phân bổ hợp lý các nguồn vốn của ngân hàng vào các lĩnh vực được Nhà nước khuyến khích phát triển, ít rủi ro và mang lại lợi nhuận tốt cho ngân hàng.
b. Theo thời hạn cho vay
Căn cứ vào thời hạn vay vốn của khách hàng, ngân hàng phân loại các khoản cho vay thành 03 loại, cụ thể:
- Cho vay ngắn hạn: Là hình thức cho vay có thời hạn dưới 12 tháng được sử dụng để bù đắp thiếu hụt vốn lưu động của các tổ chức kinh tế và nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân.
- Cho vay trung hạn: Là hình thức cho vay có thời hạn từ 01 đến 05 năm, được sử dụng chủ yếu để đầu tư vào tài sản cố định, đầu tư trang thiết bị máy móc, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thu hồi vốn nhanh. Bên cạnh việc sử dụng để đầu tư vào các tài sản cố định, nó còn là nguồn hình thành vốn lưu động thường xuyên của các doanh nghiệp.
- Cho vay dài hạn: Là hình thức cho vay có thời hạn vay trên 5 năm. Các khoản vay để đáp ứng nhu cầu đầu tư sản xuất kinh doanh hay dự án dài hạn như: Xây dựng nhà xưởng mới, xây dựng nhà ở, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông vận tải…
Quy mô của các khoản vay theo thời hạn của ngân hàng phải cân đối và phù hợp với quy mô và thời hạn của nguồn vốn huy động. Việc phân loại theo thời hạn vay sẽ giúp ngân hàng có thể điều chỉnh theo hướng siết chặt hoặc mở rộng quy mô của các kỳ hạn vay khác nhau. Việc cho vay trung và dài hạn thường có rủi ro cao hơn do tác dụng của các yếu tố tỷ giá, lạm phát… Trong thị trường tài chính phát triển, các tổ chức kinh tế sẽ tìm được các nguồn vay cho nhu cầu vốn trung, dài hạn của mình tại thị trường vốn và ngân hàng thương mại khi đó tập trung vào việc cung cấp vốn ngắn hạn cho nền kinh tế. Do đó, xu hướng chung là các khoản dư nợ của các khoản nợ trung và dài hạn sẽ giảm dần cùng sự phát triển của thị trường tài chính.
c. Theo mức độ tín nhiệm
Dựa trên mức độ tín nhiệm của khách hàng, ngân hàng sẽ áp dụng các chính sách bảo đảm cho khoản cấp tín dụng khác nhau, cụ thể:
- Cho vay không có bảo đảm: Là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng. Đối với những khách hàng tốt, trung thực trong kinh doanh, có khả năng tài chính tốt, quản trị có hiệu quả thì ngân hàng có thể cấp tín dụng dựa vào uy tín bản thân của khách hàng mà không cần một nguồn thu nợ thứ hai bổ sung.
- Cho vay có tài sản đảm bảo: Trong trường hợp này, khách hàng sẽ sử dụng tài sản mà mình đang sở hữu như: Nhà cửa, vật kiến trúc, trang thiết bị máy móc, ô tô, tài sản cố định khác… hoặc sự bảo lãnh của một hay nhiều bên thứ ba để đảm bảo, cam kết cho việc trả nợ gốc và lãi theo đúng hợp đồng tín dụng của khách hàng. Khi khách hàng không thực hiện đúng như cam kết, ngân hàng có thể xem đây như là một kênh để thu hồi một phần vốn của mình,
Phân loại tín dụng theo mức độ tín nhiệm sẽ giúp ngân hàng có thể đánh giá được chất lượng của nguồn khách hàng của chính ngân hàng. Nếu cơ sở khách hàng của ngân hàng có chất lượng tốt thì tỷ trọng dư nợ cho vay không TSBĐ trên tổng dư nợ sẽ tăng và ngược lại.
d. Theo xuất xứ tín dụng
- Cho vay trực tiếp: Ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho người có nhu cầu, đồng thời người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ vay cho ngân hàng. Trong cho vay trực tiếp, rủi ro của ngân hàng thấp hơn vì ngân hàng trực tiếp gặp gỡ với khách hàng từ đó có cái nhìn trực quan hơn về khách hàng, đánh giá được uy tín, khả năng tài chính của khách hàng để đưa ra quyết định đúng đắn.
- Cho vay gián tiếp: Là khoản cho vay được thực hiện thông qua việc mua lại các khế ước hoặc chứng từ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán. Các NHTM thường cho vay gián tiếp theo các loại sau: Chiết khấu thương mại, mua các khoản nợ của doanh nghiệp…
e. Theo phương thức hoàn trả
- Cho vay trả góp: Là loại cho vay, theo đó ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thỏa thuận. Đây là loại hình cho vay có rủi ro cao do khách hàng thường thế chấp bằng hàng hóa mua trả góp, vì vậy lãi suất cho vay trả góp thường là lãi suất cao nhất trong khung lãi suất cho vay của ngân hàng.
- Cho vay phi trả góp: Là loại cho vay được thanh toán một lần theo kỳ hạn
đã thỏa thuận, thường áp dụng đối với cho vay vốn lưu động.
- Cho vay hoàn trả theo yêu cầu: Là loại cho vay không có thời hạn cụ thể, ngân hàng có thể yêu cầu hoặc người đi vay có thể tự nguyện trả nợ bất cứ lúc nào khi có thu nhập, nhưng phải báo trước một thời gian hợp lý, thời gian này có thể được thỏa thuận trong hợp đồng.
g. Theo hình thái giá trị của tín dụng
- Cho vay bằng tiền: Là hình thức cho vay mà hình thái giá trị của tín dụng được cấp bằng tiền. Đây là loại cho vay chủ yếu của các ngân hàng và việc thực hiện là bằng các kỹ thuật khác nhau như: Tín dụng ứng trước, thấu chi, tín dụng trả góp…
- Cho vay bằng tài sản: Là hình thức cho vay bằng tài sản. Hình thái cho vay này rất phổ biến và đa dạng. Đối với ngân hàng cho vay bằng tài sản thường được áp dụng phổ biến là tài sản thuê mua. Theo phương thức cho vay, ngân hàng hoặc các công ty cho thuê tài chính (công ty con của ngân hàng) cung cấp trực tiếp tài sản cho người đi vay được gọi là người đi thuê và theo định kỳ người đi thuê hoàn trả nợ vay bao gồm cả gốc và lãi.
Ngoài các loại cho vay trên đây, ngân hàng còn thực hiện các nghiệp vụ bảo lãnh cho khách hàng bằng uy tín của mình. Đối với nghiệp vụ này, ngân hàng không phải cung cấp bằng tiền, nhưng khi người được bảo lãnh không thực hiện được nghĩa vụ theo hợp đồng thì ngân hàng phải thay thế để thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Chính vì lý do này mà người ta gọi hành vi cam kết bảo lãnh của ngân hàng là tín dụng bằng chữ ký. Tín dụng bằng chữ ký có các loại sau: Tín dụng chấp nhận; tín dụng chứng từ và bảo lãnh của ngân hàng.
1.1.2. Rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Khái niệm rủi ro tín dụng
a. Khái niệm rủi ro
Rủi ro là sự không chắc chắn. Tuy nhiên, không phải bất cứ sự không chắc chắn nào cũng là rủi ro. Sự không chắc chắn có thể ước đoán được xác suất xảy ra mới được gọi là rủi ro còn sự không chắc chắn không thể ước đoán được xác suất xảy ra gọi là sự bất trắc. Theo quan điểm hiện đại thì rủi ro có thể là những khó khăn, bất lợi, cũng có thể là những điều kiện thuận lợi, cơ hội.
Để đo lường rủi ro người ta sử dụng giá trị kỳ vọng. Giá trị kỳ vọng là giá trị trung bình có trọng số của một biến nào đó, trọng số ở đây chính là xác suất xảy ra biến đó; sai lệch giữa giá trị thực tế của biến đó so với phương sai là độ lệch chuẩn. Thước đo của rủi ro là độ lệch chuẩn, chính là sai biệt của giá trị thực tế của một biến nào đó so với giá trị kỳ vọng của nó.
Ngân hàng là tổ chức trung gian tài chính kinh doanh tiền tệ và cung ứng các dịch vụ ngân hàng tiện ích. Rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng được hiểu
là những diễn biến gây khó khăn, gây bất lợi, gây phát sinh chi phí hay những tổn thất cho ngân hàng.
Theo Nguyễn Kim Anh (2010), “Rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng là những tổn thất xảy ra ngoài ý muốn và ảnh hưởng xấu đến hoạt động kinh doanh ngân hàng”. Luận án đồng tình với quan điểm này vì có tính bao quát và đầy đủ.
b. Các loại rủi ro hoạt động ngân hàng thương mại
Có nhiều cách phân loại rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng. Bùi Diệu Anh cho rằng Rủi ro trong hoạt động NHTM có thể được phân theo các tiêu chí sau đây:
- Phân loại theo tính chất rủi ro bao gồm:
+ Rủi ro tài chính là những rủi ro gây ra tổn thất về mặt tài chính cho ngân hàng, ngân hàng có thể đo lường được giá trị mất mát từ những tổn thất này, chẳng hạn RRTD, rủi ro lãi suất…
+ Rủi ro phi tài chính là những rủi ro gây ra thiệt hại cho ngân hàng nhưng khó đo lường được tổn thất từ đó, chẳng hạn rủi ro danh tiếng, rủi ro pháp lý.
- Phân loại theo nguồn gốc xuất hiện của rủi ro có các loại rủi ro sau đây:
+ Rủi ro tín dụng là loại rủi ro xuất hiện trong các giao dịch giữa ngân hàng và đối tác của ngân hàng, trong đó chủ yếu là giao dịch tín dụng giữa ngân hàng và người vay.
+ Rủi ro lãi suất là loại rủi ro xuất phát từ sự biến động bất lợi của lãi suất thị trường tác động lên cấu trúc giữa tài sản nợ và tài sản có tại ngân hàng. Rủi ro lãi suất xuất hiện ở tất cả những hoạt động có liên quan đến thu nhập từ lãi và chi phí lãi của ngân hàng.
+ Rủi ro tỷ giá hối đoái là loại rủi ro xuất phát từ sự biến động bất lợi của tỷ giá hối đoái giữa đồng bản tệ và ngoại tệ tác động lên trạng thái ngoại hối của ngân hàng. Rủi ro ngoại hối xuất hiện trong tất cả các hoạt động làm phát sinh việc mua bán ngoại tệ của ngân hàng.
+ Rủi ro thanh khoản là loại rủi ro phát sinh khi ngân hàng không có khả năng đáp ứng các nhu cầu rút tiền, vay tiền của khách hàng hoặc đáp ứng được nhưng với một chi phí bỏ ra tốn kém từ đó dẫn đến giảm lợi nhuận của ngân hàng. Rủi ro thanh khoản có thể là hậu quả của các loại RRTD, lãi suất, hối đoái nêu trên.