Mục Tiêu Phát Triển Và Định Hướng Của Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Đến Năm 2025


GDP của Việt Nam thực tăng gần 7% trong năm 2019, gần với tỉ lệ tăng trưởng năm 2018 và Việt Nam là một trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong khu vực. Tác động của dịch bệnh COVID - 19 lên Việt Nam không nghiêm trọng như nhiều quốc gia khác nhờ có các biện pháp đối phó chủ động ở cả các cấp trung ương và địa phương, song do hội nhập kinh tế sâu rộng, Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch COVID-19 cũng như những xu hướng biến động của nền kinh tế toàn cầu:

Một là, với lượng vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ngày càng lớn (khu vực FDI chiếm tới hơn 70% tổng kim ngạch xuất khẩu, gần 50% tổng sản lượng công nghiệp), nền kinh tế Việt Nam chịu tác động mạnh trước những biến động và sự sụt giảm đầu tư của nền kinh tế thế giới.

Hai là, các ngành công nghiệp chế biến - chế tạo của Việt Nam phụ thuộc vào nguồn cung nguyên vật liệu bên ngoài do sự yếu kém của các ngành công nghiệp phụ trợ, bởi vậy khi các chuỗi cung ứng toàn cầu bị ngưng trệ vì dịch bệnh, các doanh nghiệp phải sản xuất cầm chừng khi nguồn nguyên liệu đầu vào dần cạn kiệt.

Ba là, việc xuất khẩu đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp và nuôi trồng thủy hải sản cũng bị ảnh hưởng vì phần lớn là xuất khẩu sang Trung Quốc, nay Trung Quốc đang tạm thời kiểm soát chặt chẽ các cửa khẩu và dòng lưu chuyển hàng hóa.

Bốn là, có khoảng 90% DN là vừa và nhỏ, kinh tế hộ gia đình. Khu vực này dễ bị ảnh hưởng bởi các cú sốc và không thể đứng vững được lâu trong bối cảnh kinh tế thế giới biến động, dịch bệnh kéo dài.

Về khía cạnh hội nhập kinh tế thế giới, Việt Nam hiện nay đã tham gia một số FTA thế hệ mới, trong đó nổi bật là Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EU) – EVFTA. Trong hiệp định CPTPP, Việt Nam cam kết xóa bỏ số dòng thuế ở mức cao, theo đó: 65,8% số dòng thuế có thuế


suất 0% ngay khi Hiệp định có hiệu lực; 86,5% số dòng thuế có thuế suất 0% vào năm thứ 4 khi Hiệp định có hiệu lực; 97,8% số dòng thuế có thuế suất 0% vào năm thứ 11 khi Hiệp định có hiệu lực. Đối với thuế xuất khẩu, Việt Nam cam kết xóa bỏ phần lớn các mặt hàng hiện đang áp dụng thuế xuất khẩu theo lộ trình từ 5-15 năm sau khi Hiệp định có hiệu lực. Về hiệp Hiệp định EVFTA, Việt Nam và EU cam kết sẽ xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với 99% số dòng thuế trong khoảng thời gian 7 năm đối với EU và 10 năm đối với Việt Nam. Theo đó, Việt Nam cam kết sẽ xóa bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định có hiệu lực với 48,5% số dòng thuế, sau 3 năm là 58,7% số dòng thuế, sau 5 năm là 79,6% số dòng thuế, sau 7 năm là 91,8% số dòng thuế và sau 10 năm là 98,3% số dòng thuế. Đối với thuế xuất khẩu, Việt Nam cam kết xóa bỏ phần lớn thuế xuất khẩu hàng hóa sang EU với lộ trình lên đến 15 năm.

Việc ký kết và tham gia các FTA thế hệ mới sẽ có tác động lớn đến nền kinh tế Việt Nam thông qua việc mở rộng thị trường xuất nhập khẩu, theo đó, kim ngạch xuất nhập khẩu sang các nước đối tác sẽ tăng, củng cố thị trường truyền thống, khơi thông nhiều thị trường tiềm năng cũng như thu hút nguồn vốn đầu tư trên cơ sở thúc đẩy quan hệ với các đối tác chiến lược kinh tế quan trọng. Tuy nhiên, việc thực hiện các FTA thế hệ mới tạo ra áp lực cạnh tranh gay gắt trên cả 3 bình diện: Cạnh tranh giữa sản phẩm trong nước và sản phẩm nước ngoài; cạnh tranh giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp nước ngoài và cạnh tranh giữa các chính phủ về thể chế và môi trường kinh doanh. Điều này đặt ra một số thách thức cho nền kinh tế Việt Nam, như các thách thức về hoàn thiện thể chế, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, nâng cao sức cạnh tranh của các sản phẩm nội địa. Mặt khác, dòng vốn liên thông hơn với quốc tế cũng khiến cho những nguy cơ bất ổn kinh tế vĩ mô gia tăng trong bối cảnh kinh tế thế giới và khu vực có nhiều biến động cũng đặt ra những thách thức trong việc xây dựng và thực thi các chính sách kinh tế vĩ mô.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 238 trang tài liệu này.


Những tác động của nền kinh tế vĩ mô tới hoạt động ngân hàng và hoạt động quản lý rủi ro tác nghiệp

Quản lý rủi ro tác nghiệp của Ngân hàng Thương mại cổ phần Công thương Việt Nam 1669821519 - 21

Hoạt động của ngân hàng liên quan mật thiết với mọi biến động của tổ chức và cá nhân trong xã hội. Đặc biệt khi thị trường tài chính Việt Nam còn sơ khai, kênh dẫn vốn từ thị trường cổ phiếu và trái phiếu vẫn còn non yếu, điều này dẫn đến ngân hàng là kênh cung ứng vốn chủ đạo cho nền kinh tế (chiếm hơn 60% tổng lượng vốn). Trước diễn biến của nền kinh tế toàn cầu cũng như nền kinh tế Việt Nam, và mức độ tác động của tình hình dịch bệnh Covid-19, ảnh hưởng của Covid-19 tới hoạt động ngân hàng nói chung và tới quản lý rủi ro tác nghiệp nói riêng đã bộc lộ rõ nét, có thể ghi nhận đến thời điểm này ở một số khía cạnh:

Thứ nhất, với hoạt động tác nghiệp hàng ngày

Sự lây lan của dịch bệnh khiến cho các hoạt động tác nghiệp cũng như cơ cấu vận hành của tất cả các ngân hàng từ Hội sở đến các chi nhánh/phòng giao dịch đều bị ảnh hưởng. Nếu một thành viên ngân hàng bị nhiễm COVID-19, hoặc tiếp xúc chủ đích hoặc ngẫu nghiên với người nhiễm COVID-19, có thể khiến cả ngân hàng bị ảnh hưởng, công việc và hoạt động nghiệp vụ của ngân hàng bị đình trệ, tác động đến chuỗi các công việc khác của ngân hàng, ảnh hưởng đến đến tâm lý và hiệu quả làm việc của những nhân viên và cả hệ thống. Mặc khác, khi thông tin ngân hàng có nhân viên nhiễm COVID-19 hoặc bị cách ly bị lan truyền ra bên ngoài, điều này chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến tâm lý của khách hàng giao dịch tại ngân hàng, đặc biệt là khách hàng cá nhân, họ sẽ e ngại khi phải đến tiếp xúc trực tiếp tại ngân hàng, từ đó, các hoạt động nhận gửi tiền/mở tài khoản/mở thẻ/cho vay vốn/và các dịch vụ ngân hàng khác chắc chắn bị ảnh hưởng.

Thứ hai, với tăng trưởng tín dụng

Theo số liệu của Ngân hàng nhà nước (NHNN) tính đến 29/5/2020, dư nợ tín dụng của hệ thống ngân hàng đối với nền kinh tế chỉ tăng 1,96% so với cuối


năm 2019, thấp nhất trong khoảng 15 năm gần đây. Nguyên nhân chính là do nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp và người dân, hộ gia đình quá thấp (mặc dù các NHTM đã đồng loạt hạ lãi suất, đồng thời tung ra các gói tín dụng ưu đãi, đẩy mạnh khâu kết nối ngân hàng – doanh nghiệp).

Báo cáo tài chính quý I/2020 của các NHTM đang niêm yết đã công bố công khai cho thấy, trong quý I/2020, lợi nhuận sau thuế của 18 NHTM niêm yết giảm 11,5% so với quý IV/2019. Đây là mức giảm lớn nhất kể từ quý II/2018.Tính đến giữa tháng 3/2020, toàn hệ thống các tổ chức tín dụng đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ cho khách hàng với tổng dư nợ 21.753 tỷ đồng, đồng thời miễn giảm lãi cho khoảng 8000 khách hàng với số tiền trên 350 tỷ đồng. Các ngân hàng cũng đang xem xét miễn giảm lãi cho vay đối với 34.350 khách hàng với dư nợ 185.000 tỷ đồng; đồng thời, tiếp tục hoàn thiện hồ sơ mới, cho vay mới cho khoảng 5.493 khách hàng với doanh số cho vay dự kiến khoảng 24.000 tỷ đồng. Bên cạnh đó, trước ảnh hưởng của bệnh dịch Covid-19, các lĩnh vực chịu ảnh hưởng nặng nhất gồm (Bộ KH&ĐT, 2020): (i) chi phí y tế trong phòng

- chống dịch; (ii) du lịch, lữ hành, khách sạn; (iii) giao thông vận tải; (iv) thương mại; (v) đầu tư; (vi) các ngành sản xuất theo chuỗi; và (vi) dịch vụ tài chính. Cùng với đó, dịch bệnh này có thể khiến GDP toàn cầu giảm khoảng 0,3 - 0,5% năm 2020 khiến cho xuất khẩu của chúng ta tiếp tục giảm 20% và nhập khẩu giảm 16% trong quý II, do đó, mục tiêu tăng trưởng tín dụng 14% trong năm 2020 khó có thể đạt được kế hoạch.

Với dư nợ tiêu dùng, hiện tại tổng vay tiêu dùng trên dư nợ của Việt Nam là 11,4%, khoảng 0.93 triệu tỷ đồng. Theo báo cáo của Infocus Mekong (Ella Zoe Doan 2020), Covid-19 sẽ làm chi tiêu hộ gia đình giảm bình quân 15% với các lĩnh vực như giáo dục, nhà cửa, ăn uống, giải trí… Khi tổng chi tiêu của người dân sụt giảm, nhu cầu vay tiêu dùng cũng sẽ giảm tương ứng. Nên trước sự suy giảm chi tiêu của hộ gia đình được ghi nhận ở mức đáng kể là 15%, mục tiêu đạt mốc 1 triệu tỷ đồng cho vay tiêu dùng trong năm 2020, rồi tiến tới mục


tiêu xa hơn là nâng tỷ trọng vay tiêu dùng trên dư nợ lên mức 40 - 50% tổng dư nợ để đạt mức tỷ trọng của các nước phát triển là điều không thể thực hiện được.

- Thứ ba, với lợi nhuận ngân hàng

Điều này là hệ quả tất yếu khi tỷ trọng thu của tín dụng vẫn chiếm đa số trong tổng thu của ngân hàng. Ngày 12/3/2020, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư 01/2020/TT-NHNN hướng dẫn các tổ chức tín dụng cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn giảm lãi vay, giữ nguyên nhóm nợ hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng từ dịch Covid-19. Cùng với đó, hàng loạt các mức lãi suất cơ bản được Ngân hàng Nhà nước điều hành giảm từ 17/3/2020. Do vậy, số tiền giảm đi do áp dụng các ưu đãi này sẽ làm giảm lợi nhuận của các ngân hàng. Các chính sách hỗ trợ, cùng san sẻ rủi ro với khách hàng như vậy chắc chắn sẽ làm giảm đáng kể nguồn thu nhập từ tín dụng. Ngoài ra, nguồn thu nhập của các ngân hàng không những chỉ chịu ảnh hưởng từ sự giảm sút của hoạt động tín dụng, mà nguồn thu phí cũng bị ảnh hưởng tiêu cực khi mọi giao dịch trong nền kinh tế bị chậm lại.

- Thứ tư, với nợ xấu

Theo Ngân hàng Nhà nước, tổng dư nợ bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 theo thống kê sơ bộ từ các tổ chức tín dụng ước tính lên tới khoảng 900 ngàn tỷ đồng. Đại dịch Covid-19 bùng phát làm hàng hóa trở nên ách tắc, sản xuất kinh doanh đình trệ, hàng xuất đi không bán được hoặc nếu có đầu ra thì lại thiếu nguồn nguyên liệu đầu vào do các thị trường nhập khẩu nguyên vật liệu đều dừng hoạt động. Như vậy, có thể thấy, với việc nền kinh tế rơi vào tình trạng trì trệ, chuỗi cung ứng bị gián đoạn thì doanh nghiệp là những đối tượng sẽ gặp khó khăn đầu tiên, từ đó, ảnh hưởng đến năng lực trả nợ vay cho các ngân hàng. Tính đến thời điểm hiện tại, số lượng doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh và chờ giải thể tăng vọt so với cùng kỳ năm ngoái, dẫn đến khách hàng không có khả năng trả nợ đúng hạn, và từ đó gia tăng tỷ lệ nợ quá hạn, gia tăng nợ xấu. Nhiều ngành như nông, lâm nghiệp & thủy sản, doanh nghiệp có hoạt động xuất nhập khẩu,


dịch vụ lưu trú, ăn uống, thực phẩm, đồ uống, vận tải, dệt may, da giầy, điện tử, điện lạnh, dầu khí, du lịch, giáo dục, cùng các doanh nghiệp có thị trường xuất khẩu và nguồn nguyên liệu nhập khẩu chính từ Trung Quốc… đều là những nhóm chịu ảnh hưởng nặng nề từ dịch bệnh. Những doanh nghiệp trong các lĩnh vực này chiếm lượng khá lớn trong số các khách hàng của các ngân hàng, do đó, nguy cơ gia tăng nợ xấu là khó tránh khỏi.

Những biến động của nền kinh tế trong giai đoạn gần đây cũng dẫn tới những bất ổn trên thị trường tài chính, gây ảnh hưởng tới các NHTM. Thị trường trái phiếu tăng nhanh, nhiều diễn biến phức tạp. Doanh nghiệp phát hành trái phiếu vượt nhiều lần vốn chủ sở hữu. Năm 2019, doanh nghiệp chào bán hơn 300 nghìn tỷ trái phiếu, các NHTM cũng tăng mua trái phiếu, nhất là đối với lĩnh vực bất động sản cùng với các dấu hiệu của đảo nợ. Quý I/2020, lượng phát hành trái phiếu tiếp tục tăng cao, tăng hơn 30% so với năm 2019, điều này dẫn tới nguy cơ nợ xấu, nợ công gia tăng.

Với những diễn biến khó lường của nền kinh tế vĩ mô cũng tình hình dịch bệnh, các ngân hàng cần xem xét các kế hoạch duy trì hoạt động kinh doanh và ứng phó với những khó khăn đã và sẽ phải đối mặt, đồng thời biến nguy thành cơ bằng tận dụng những cơ hội.

Các NHTM cần kiểm định tính hiệu quả của các chính sách đã xây dựng về quản trị rủi ro, trong đó có rủi ro tác nghiệp. Ngân hàng cần kiểm tra quy trình hoạt động và hệ thống nhân sự hiện tại để xác định và ngăn chặn những vấn đề về việc thực hiện không đủ quy trình kiểm soát sau cho vay phát sinh do giãn cách xã hội, kiểm tra những thiếu sót của cán bộ ngân hàng do khối lượng công việc gia tăng sau dịch bệnh. Kiểm tra và có biện pháp khắc phục những hạn chế về kiến thức, khả năng của cán bộ ngân hàng khi đánh giá toàn diện về hoạt động thực chất của doanh nghiệp, nhất là trong bối cảnh phức tạp như hiện nay ( các doanh nghiệp luôn tìm cách đảo nợ, báo cáo không trung thực, không minh bạch


số liệu, thậm chí đưa ra phương án kinh doanh không phù hợp, sai lệch,…) có vận hành hiệu quả và có những điều chỉnh tối ưu hóa hơn.

Về công tác nhân sự, khi hiện tại, Việt Nam là quốc gia có năng suất lao động thấp, nhiều lao động trong bộ máy không có hiệu quả, do đó ngân hàng cần xem xét cắt giảm những nguồn nhân lực chưa phát huy hiệu quả, từ đó tối ưu hóa được chi phí hoạt động. Ngoài ra, những bất ổn từ nền kinh tế vĩ mô và tinh hình dịch bệnh còn là thời cơ giúp Ban lãnh đạo nhìn nhận lại các chính sách đối phó với các loại rủi ro, chủ động điều chỉnh hoặc xây dựng lại các kịch bản có thể gặp phải, từ đó, hình thành các phương án hoạt động đối phó với những khủng hoảng hoặc sự kiện bất ngờ hiệu quả hơn.

Sự bất ổn của nền kinh tế vĩ mô cũng là động lực để đẩy mạnh tiến trình chuyển đổi số ngân hàng. Việc số hóa từ văn bản, thủ tục, phương thức làm việc, phương thức giao dịch trong nội bộ cũng như với khách hàng qua giai đoạn dịch bệnh này được nhìn nhận là việc làm hết sức cấp thiết. Đẩy nhanh hoàn thiện hệ thống big data và nhanh chóng đưa vào sử dụng các sản phẩm ngân hàng số, các giao dịch ngân hàng điện tử, đặc biệt với nhóm ngân hàng bán lẻ phục vụ khách hàng cá nhân và doanh nghiệp vừa và nhỏ để giảm giao dịch trực tiếp với nhóm khách hàng này.

Mặt khác, việc giảm tăng trưởng tín dụng là cơ hội tốt để các ngân hàng điều chỉnh danh mục cho vay hướng tới một khẩu vị rủi ro mới an toàn và bền vững hơn. Các ngân hàng cần hướng tới điều chỉnh danh mục tài sản, tiến tới giảm tỷ trọng tín dụng, tăng các tài sản khác, mặc dù đây là điều không hề dễ dàng vì tín dụng luôn được coi là tài sản cơ bản nhất của kinh doanh ngân hàng nhưng nó cũng mang lại nhiều tổn thất nhất nếu rủi ro tín dụng xảy ra. Do đó, giảm tỷ trọng tín dụng, giảm thu lãi từ tín dụng, tăng tỷ trọng các hoạt động dịch vụ, từ đó, tăng thu từ những hoạt động phi tín dụng luôn là mục tiêu của nhiều ngân hàng.


Ngoài ra, để giảm thiểu nợ xấu, các ngân hàng cần kiên trì tuân thủ các chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước trong việc cơ cấu lại thời gian trả nợ, miễn giảm lãi vay cho khách hàng vay vốn tại ngân hàng. Việc này sẽ khiến các ngân hàng phải hi sinh mục tiêu lợi nhuận đã đặt ra, nhưng chung lưng cùng doanh nghiệp và cá nhân đang gặp khó khăn vì tình hình dịch bệnh và bị ảnh hưởng bất lợi từ sự bất ổn của nền kinh tế vĩ mô sẽ giúp khách hàng sớm phục hồi hoạt động, từ đó, không chỉ khách hàng mà cả ngân hàng và nền kinh tế sẽ hồi phục bền vững.

3.1.2. Mục tiêu phát triển và định hướng của Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam đến năm 2025

Bước sang năm 2020, mục tiêu kinh doanh của VietinBank là duy trì tốc độ tăng trưởng hợp lý và phát triển bền vững, tập trung nguồn lực phát triển hoạt động kinh doanh theo chiều sâu, tăng trưởng bứt phá về hiệu quả thông qua quản trị tốt chất lượng tăng trưởng; tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh doanh và cơ cấu thu nhập; cải thiện mạnh mẽ chất lượng dịch vụ, phát triển sản phẩm dịch vụ hiện đại, tăng thu dịch vụ và thu ngoài lãi, cải thiện cơ cấu thu nhập; quản trị tốt chi phí hoạt động, nâng cao hiệu quả sử dụng chi phí; đẩy mạnh thu hồi nợ xấu, nợ xử lý rủi ro, nâng cao chất lượng tài sản; tiếp tục thực hiện đồng bộ các biện pháp nhằm tăng năng lực tài chính, tăng vốn tự có.

VietinBank định hướng tiếp tục thực hiện có kết quả Phương án cơ cấu lại gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016 - 2020, không ngừng chuẩn hóa toàn diện mọi mặt hoạt động, phát triển cơ sở hạ tầng, hiện đại hóa công nghệ thông tin, nâng cao năng lực quản trị rủi ro, quản trị, điều hành theo tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế.

3.1.2.1. Mục tiêu phát triển của Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương Việt Nam trong thời gian tới

Trong giai đoạn 2020 -2021, VietinBank hướng tới thực hiện một số mục tiêu kinh doanh: (1) Tăng trưởng tổng tài sản bình quân là 13,4%/ năm. (2) Tăng trường nguồn vốn huy động bình quân là 13,9%/năm. (3) Tăng trưởng dư

Xem tất cả 238 trang.

Ngày đăng: 30/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí