văn bản của NHNN ban hành trong thời gian tới để hướng dẫn thực hiện Basel II đòi hỏi các NHTM có sự thay đổi mạnh mẽ về nhận thức và tăng cường đáng kể năng lực quản lý rủi ro tín dụng. Trước thực tế này, hàng loạt các NHTM đã và sẽ tổ chức triển khai các dự án nhằm tuân thủ các tiêu chuẩn của Basel về rủi ro tín dụng như: các dự án về cơ cấu tổ chức quản lý rủi ro tín dụng theo chuẩn mực Basel; các dự án về hệ thống khung quản lý rủi ro tín dụng và kho dữ liệu; các dự án về phương pháp luận quản lý rủi ro tín dụng; các dự án về giải pháp đo lường, quản lý rủi ro tín dụng; các dự án về nâng cao năng lực kiểm toán và kiểm soát nội bộ theo chuẩn mực Basel.
Thứ hai, về ứng dụng các thành tựu của cuộc cách mạng công nghệ 4.0 trong quản lý rủi ro tín dụng. Ngày 08/8/2018, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 986/QĐ-TTg về phê duyệt “Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”, trong đó Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo những mục tiêu ngành Ngân hàng cần đạt được, đặc biệt là phát triển hệ thống các tổ chức tín dụng theo hướng dựa trên nền tảng công nghệ, quản trị ngân hàng tiên tiến, phù hợp với chuẩn mực hoạt động theo thông lệ quốc tế. Trên cơ sở đó, NHNN cũng đã ban hành Kế hoạch ứng dụng Công nghệ thông tin của các TCTD giai đoạn 2017 - 2020 với các mục tiêu, lộ trình và giải pháp cụ thể. Trong đó với hoạt động quản lý rủi ro tín dụng nói riêng và quản lý rủi ro nói chung tại NHTM, xu thế tất yếu là việc ứng dụng các phương pháp quản lý có ứng dụng các phần mềm công nghệ hiện đại và sử dụng hệ thông thông tin đa chiều làm cơ sở dữ liệu đầu vào. Trước bối cảnh đó thì việc đầu tư phát triển về cơ sở hạ tầng dữ liệu, nâng cao trình độ công nghệ thông tin và đào tạo nhân sự là yêu cầu cấp bách đối với tất cả các NHTM Việt Nam.
4.2. Giải pháp cho các NHTM Việt Nam nhằm hoàn thiện quản lý rủi ro danh mục cho vay
4.2.1. Về cơ cấu tổ chức quản lý rủi ro danh mục cho vay
Cơ sở đề xuất giải pháp
Trước thực trạng về cơ cấu tổ chức quản lý rủi ro danh mục cho vay tại chương
3 của luận án, một vấn đề cần được cải thiện tại các NHTM là tăng cường tính hiệu quả của cơ chế “Ba lớp phòng vệ” trong quản lý rủi ro tín dụng. Vì vậy các giải pháp để hoàn thiện cơ chế này được đưa ra dựa trên lý thuyết về nguyên tắc quản lý rủi ro tín dụng theo Basel II cũng như kinh nghiệm của ngân hàng Phát triển Hàn Quốc (KDB) được chỉ ra tại chương 2.
Ngoài ra, theo kết quả khảo sát tại luận án, hiện nay đa số các NHTM tại Việt Nam đã xây dựng cơ cấu quản lý rủi ro tín dụng theo mô hình tập trung. Đây được xem là mô hình với nhiều ưu điểm hơn so với mô hình quản lý rủi ro tín dụng phân tán như đã được làm rõ tại chương 2 của luận án. Tuy vậy, từ kinh nghiệm của ngân hàng Citibank - Hoa Kì và các NHTM Nhật Bản được tham khảo, vẫn cần có các giải pháp để ứng dụng phù hợp nhất dạng mô hình tổ chức quản lý rủi ro danh mục cho vay trong điều kiện thực tế tại các NHTM Việt Nam hiện nay.
Nội dung giải pháp
(i) Nhóm giải pháp về tăng cường tính hiệu quả của cơ chế “Ba lớp phòng vệ”
Có thể bạn quan tâm!
- Mức Độ Sử Dụng Các Phương Pháp Đo Lường Rủi Ro Danh Mục Cho Vay Tại Các Nhtm
- Lượng Trái Phiếu Đặc Biệt Do Vamc Phát Hành Được Nắm Giữ Tại Các Nhtm Tại 31/12/2019 (Đơn Vị: Tỷ Đồng)
- Về Cơ Cấu Tổ Chức Quản Lý Rủi Ro Danh Mục Cho Vay
- Phân Phối Giá Trị Tổn Thất Của Danh Mục Cho Vay Theo Phương Pháp Firb
- Lãi Suất Chiết Khấu Với Khoản Vay Cho Các Hạng Tín Dụng Khác Nhau Theo Các Kì Hạn Khác Nhau
- Xác Suất Chuyển Hạng Chung Của Hai Khoản Vay A Và B29
Xem toàn bộ 252 trang tài liệu này.
Một là, các chính sách, quy định nội bộ của NHTM cần đưa ra rõ ràng và nhất quán về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm báo cáo kết quả thực hiện quản lý rủi ro tín dụng của từng bộ phận: các đơn vị kinh doanh, bộ phận quản lý rủi ro tín dụng và bộ phận kiểm soát nội bộ. Các quy định này cần đưa ra theo hướng tránh việc trùng lắp nhiệm vụ và quyền hạn giữa các lớp phòng vệ và đưa ra quy định báo cáo chéo bắt buộc giữa các lớp phòng vệ hoặc quyết định một đơn vị có thẩm quyền cao trong NHTM để là đầu mối nhận các báo cáo định kì về quản lý rủi ro tín dụng được đưa ra tại các lớp phòng vệ.
Hai là, mọi bộ phận trong NHTM cần tự xây dựng cho mình “Văn hoá quản lý rủi ro”. Mô hình quản lý rủi ro theo cấu trúc phòng thủ ba tuyến tại ngân hàng là chuẩn mực an toàn giúp ngân hàng tuân thủ và dần tiệm cận với các chuẩn mực quản trị tiên tiến trên thế giới, đặc biệt, tạo nên văn hóa ý thức và kiểm soát rủi ro trong mỗi nhân viên của ngân hàng. Mỗi cá nhân, từ chuyên viên khách hàng
tới nhân viên các khối hỗ trợ, đều phải tuân thủ quy định, quy trình và ý thức được trách nhiệm đánh giá, phát hiện sớm rủi ro và tìm cách ngăn ngừa các rủi ro phát sinh. “Văn hoá quản lý rủi ro” tức là quản lý rủi ro tín dụng cần thực hiện bởi cả hệ thống ngân hàng, chứ không phải là trách nhiệm riêng của khối quản lý rủi ro.
Ba là, cần nâng cao tính hiệu quả của bộ phận kiểm soát nội bộ tại NHTM trong cơ chế “Ba lớp phòng vệ”. Việc duy trì tính độc lập và hiệu quả của bộ phận kiểm soát nội bộ tại NHTM trên thực tế không phải là điều dễ dàng do bộ phận này cùng với các bộ phận kinh doanh và quản lý rủi ro tại NHTM vẫn ràng buộc nhau bởi yếu tố lợi ích. Do vậy việc đưa ra các đánh giá, cảnh báo rủi ro và hành động hoàn toàn khách quan của kiểm soát nội bộ gần như rất khó thực hiện tại các NHTM Việt Nam hiện nay. Để hạn chế vấn đề này, điều kiện tiên quyết các NHTM cần thực hiện được là tách rời hoàn toàn lợi ích của Ban kiểm soát nội bộ với quyền hạn và trách nhiệm của Ban điều hành cũng như Khối quản lý rủi ro. Ngoài ra, với các NHTM có năng lực quản lý rủi ro yếu kém, NHNN có thể cử cán bộ tham gia vào Ban kiểm soát nội bộ của NHTM để tăng cường tính khách quan và minh bạch trong đánh giá và giám sát.
(ii) Nhóm giải pháp về lựa chọn mô hình tổ chức quản lý rủi ro danh mục cho vay
Về mặt lý thuyết đã đưa ra nhiều điểm ưu việt của mô hình quản lý rủi ro tập trung, tuy vậy không phải đây là dạng mô hình phù hợp nhất cho mọi NHTM tại Việt Nam. Việc lựa chọn mô hình tổ chức quản lý rủi ro phù hợp nhất nên căn cứ vào các yếu tố sau:
Chiến lược phát triển cho vay của ngân hàng: phân khúc khách hàng, mức khẩu vị rủi ro, tập trung mở rộng thị phần hay tối đa hoá lợi nhuận, chú trọng gia tăng chất lượng dịch vụ hay cạnh tranh về lãi suất cho vay
Năng lực của ngân hàng về nhân lực, công nghệ, tài chính
Mô hình tổ chức được xây dựng nên cần phải hướng tới ba mục tiêu: rủi ro thấp, hiệu quả cao và sự hài lòng của khách hàng. Tùy từng giai đoạn phát
triển mà mỗi ngân hàng đặt tầm quan trọng của các mục tiêu khác nhau, do đó mô hình tổ chức quản lý rủi ro tín dụng có thể thay đổi.
Bên cạnh đó, các NHTM cần lưu ý khi lựa chọn dạng mô hình quản lý rủi ro để tránh các trường hợp sau:
Áp dụng máy móc mô hình do học hỏi kinh nghiệm từ nước ngoài mà không xét đến sự phù hợp với thực tiễn tại chính NHTM và đặc điểm thị trường tín dụng tại Việt Nam
Chưa có chiến lược cho vay rõ ràng đã tiến hành thay đổi mô hình, hay nói cách khác mô hình không được thiết lập dựa trên chiến lược
Thay đổi mô hình quản lý rủi ro quá nhanh và nóng vội khi chưa chuẩn bị đầy đủ các điều kiện để có thể vận hành mô hình
Nếu NHTM lựa chọn sai dạng mô hình quản lý rủi ro tín dụng sẽ dẫn tới hệ quả là rủi ro gia tăng, ngân hàng có thể gặp tổn thất tài chính hoặc mất đi khách hàng, suy giảm chất lượng dịch vụ...Như vậy, trong điều kiện thực tế hiện nay, các NHTM Việt Nam có thể lựa chọn ba dạng mô hình quản lý rủi ro danh mục cho vay bao gồm: mô hình tập trung, mô hình phân tán, mô hình chuyển đổi (mô hình kết hợp) sao cho phù hợp nhất
4.2.2. Về nhận diện rủi ro danh mục cho vay
Cơ sở đề xuất giải pháp
Như các hạn chế đã nêu ra tại chương 3 trong việc áp dụng EWS để nhận diện rủi ro tín dụng trên thực tế tại các NHTM Việt Nam, luận án đưa ra các giải pháp để hoàn thiện hệ thống này, đặc biệt trong việc xây dựng các chỉ tiêu sử dụng trong cảnh báo sớm rủi ro dựa trên kinh nghiệm học hỏi tại các NHTM Nhật Bản và ngân hàng Citibank - Hoa Kì như đã chỉ ra tại chương 2.
Nội dung giải pháp
Thứ nhất, các NHTM nhóm 2 cần có lộ trình nhanh chóng xây dựng và áp dụng trên thực tiễn hệ thống EWS trong quản lý rủi ro danh mục cho vay. Các NHTM này có thể tham khảo khuôn mẫu triển khai tại các NHTM tương đồng đã hoàn
thành và vận hành hệ thống EWS trên thực tế, chuẩn bị các điều kiện về tài chính và nhân sự để đáp ứng với yêu cầu vận hành của hệ thống này.
Thứ hai, tại cả hai nhóm NHTM cần hoàn thiện hệ thống EWS theo hướng đa dạng hơn các chỉ số dùng trong cảnh báo sớm rủi ro tín dụng, đặc biệt các chỉ số dành cho nhóm khách hàng doanh nghiệp, đồng thời cần sử dụng nhiều hơn các chỉ số có thể tính toán tự động và cập nhật được theo tình hình tài chính của khách hàng liên tục theo thời gian. Thêm vào đó, từ kinh nghiệm của các NHTM Nhật Bản, các NHTM Việt Nam có thể bổ sung thêm các chỉ số về kinh tế vĩ mô hoặc các chỉ số về chất lượng tín dụng của hệ thống các NHTM để đưa ra cảnh báo sớm về các loại rủi ro hệ thống, bởi các rủi ro này sau đó sẽ tác động tới danh mục cho vay của từng NHTM. Ngoài ra, kinh nghiệm quản lý rủi ro tại ngân hàng Citibank - Hoa Kì còn gợi ý việc đưa ra một hệ thống riêng để theo dõi các khoản nợ xấu, bởi đây là các khoản vay tiềm tàng nguy cơ tổn thất tín dụng cao nhất. Hệ thống này nên được duy trì song song với EWS và cần được tập trung vào các công cụ giám sát và xử lý sau cho vay.
Thứ ba, để nâng cao chất lượng nhận diện rủi ro tín dụng và đáp ứng các chuẩn mực quốc tế về quản lý rủi ro, các NHTM ở cả hai nhóm mà đặc biệt là các NHTM nhóm 1 cần thúc đẩy việc sử dụng các phương pháp thống kê theo hướng hiện đại như Migration analysis, Vintage analysis… thông qua đầu tư nguồn lực để nâng cao trình độ công nghệ và đào tạo nhân sự có trình độ phân tích và sử dụng phần mềm.
4.2.3. Về đo lường rủi ro danh mục cho vay
Cơ sở đề xuất giải pháp
Giải pháp về đo lường rủi ro danh mục cho vay tại các NHTM Việt Nam được tác giả đưa ra theo từng nhóm NHTM do có sự khác nhau trong trình độ phát triển và vận dụng các phương pháp lượng hoá rủi ro tại hai nhóm NHTM này như chương 3 đã làm rõ. Theo đó, các NHTM nhóm 2 cần chú trọng nâng cao tính ứng dụng của kết quả đo lường rủi ro trong quản lý rủi ro danh mục cho vay trên thực tiễn. Ngoài ra, các NHTM ở cả hai nhóm cần hoàn thiện hơn việc sử
dụng các phương pháp lượng hoá rủi ro hiện đại như phương pháp AIRB theo Basel II và nhóm các phương pháp dự báo chất lượng danh mục cho vay trong tương lai. Việc hoàn thiện các phương pháp đo lường rủi ro được đưa ra dựa trên yêu cầu về nguyên tắc quản lý rủi ro tín dụng theo Basel II và nền tảng lý thuyết của từng phương pháp như được trình bày tại chương 2, trong đó hướng tới vận dụng các phương pháp hiện đại theo xu hướng tại các NHTM trên thế giới như kinh nghiệm của ngân hàng Phát triển Hàn Quốc (KDB) và phù hợp với các quy định pháp lý của NHNN cũng như điều kiện hiện tại của các NHTM Việt Nam.
Nội dung giải pháp
Nhóm giải pháp chung cho các NHTM
(i) Về sử dụng các phương pháp đo lường rủi ro tín dụng theo khuyến nghị của Basel II
Thứ nhất, về yếu tố tương quan vỡ nợ giữa các khoản vay. Hiện nay theo hai phương pháp SA và FIRB, các NHTM Việt Nam mới chỉ dừng lại ở việc đo lường rủi ro cho từng khoản vay riêng lẻ, bỏ qua tính tương quan giữa các khoản vay trong danh mục. Như vậy kết quả về tổn thất được tính toán chưa tính tới lợi ích của việc quản lý rủi ro tín dụng thông qua đa dạng hoá danh mục cho vay. Do vậy các NHTM cần thiết phải xây dựng công cụ để đưa cả yếu tố tương quan rủi ro vỡ nợ giữa các khản vay vào trong việc tính toán rủi ro tín dụng.
Thứ hai, về hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ. Nếu NHTM áp dụng phương pháp IRB thì hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ là căn cứ quan trọng cho việc tính toán rủi ro. Theo Basel II, 11 nhóm yêu cầu để NHTM có thể áp dụng được phương pháp IRB bao gồm: (a) cấu thành của các yêu cầu tối thiểu, (b) sự tuân thủ các yêu cầu tối thiểu, (c) thiết kế hệ thống đánh giá, (d) các nghiệp vụ của hệ thống đánh giá rủi ro, (e) quản trị điều hành và kiểm soát doanh nghiệp, (f) sử dụng sự đánh giá nội bộ, (g) hạn chế rủi ro, (h) tính hợp lệ của việc đánh giá nội bộ, (i) kiểm chứng các ước lượng nội bộ, (j) cân nhắc chi phí vốn đối với rủi ro về vốn, (k) các yêu cầu về tính minh bạch . Trong đó, yêu cầu về tính hợp lệ của việc đánh giá nội bộ bao gồm: phương pháp,
quy trình, các biện pháp kiểm soát, việc thu thập số liệu và hệ thống công nghệ thông tin nhằm hỗ trợ cho việc đánh giá rủi ro tín dụng, thực hiện đánh giá rủi ro nội bộ, đánh giá rủi ro và tổn thất dự kiến. Tuy vậy yêu cầu này chưa được thực hiện đầy đủ và đồng nhất tại các NHTM tại Việt Nam, thậm chí tại một số NHTM vẫn còn tình trạng gán cho người vay một mức đánh giá không chính xác để giảm thiểu các yêu cầu về vốn theo quy định. Như vậy để áp dụng được phương pháp IRB, NHTM cần chứng tỏ được rằng hệ thống đánh giá nội bộ đã tuân thủ các yêu cầu tối thiểu và có thể tin cậy được. Để làm được điều này, NHTM cần thực hiện các công việc như sau để cải thiện hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ hiện nay:
Một là, hệ thống này cần có hai đánh giá riêng biệt: về mức độ rủi ro tín dụng của khách hàng vay và của từng khoản vay (với các đặc tính riêng biệt).
Hai là, các hạng rủi ro cần được phân chia theo các cấp độ để đánh giá cả năng lực trả nợ của khách hàng vay và mức độ tài trợ đối với khoản vay (nhóm nợ).
Ba là, các tiêu chí sử dụng trong xếp hạng tín dụng này cần chi tiết, đầy đủ để cho phép bên thứ ba dễ dàng hiểu được quyết định khi đánh giá (ví dụ: cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng, các đơn vị kiểm toán độc lập). Bên cạnh đó, các tiêu chí được sử dụng cũng cần phải thống nhất với các chính sách và chuẩn mực cho vay trong nội bộ ngân hàng, phù hợp với đặc thù riêng của từng nhóm khách hàng và nên đa dạng cả các tiêu chí định tính và định lượng. Thứ ba, các ngân hàng áp dụng phương pháp SA hoặc IRB cần phải thường xuyên so sánh tỷ lệ PD thực tế với con số dự tính tại từng bậc xếp hạng và cần có chứng minh rằng tỷ lệ PD thực tế nằm trong phạm vi dự kiến cho bậc xếp hạng đó. Hơn nữa, với các NHTM sử dụng phương pháp IRB phải thực hiện sự phân tích như trên đối với thêm cả hai đại lượng EAD và LGD. Sự so sánh này cần sử dụng dữ liệu lịch sử trong thời gian càng dài càng tốt, các phương pháp và dữ liệu để so sánh cần được ngân hàng ghi lại rõ ràng
bằng văn bản và ngân hàng nên cập nhật các phân tích và dữ liệu ít nhất mỗi năm một lần.
Thứ tư, về việc lựa chọn phương pháp phù hợp nhất với các NHTM Việt Nam trong ba phương pháp theo khuyến nghị của Basel II là SA, FIRB và AIRB. Thực trạng hiện nay tại các NHTM Việt Nam cho thấy mức độ khả thi trong việc áp dụng từng phương pháp trên như sau:
Một là, với phương pháp SA: đây là phương pháp đơn giản nhất trong ba phương pháp trên, tuy vậy tại Việt Nam hiện chưa có tổ chức xếp hạng tín dụng nào hoạt động hiệu quả. Nếu sử dụng dữ liệu từ các tổ chức xếp hạng quốc tế có uy tín như S P, Moody’s hay Fitch thì chỉ rất ít các khách hàng tại Việt Nam được xếp hạng. Như vậy với các khách hàng không được xếp hạng thì có mức độ rủi ro được quy chuẩn là rất cao, ảnh hưởng lớn đến mức vốn tự có mà NHTM cần phải duy trì.
Hai là, với phương pháp FIRB: đây là phương pháp có thể coi là khả thi nhất để áp dụng tại các NHTM Việt Nam hiện nay để vừa đảm bảo việc đo lường rủi ro tín dụng cho kết quả chính xác với thực trạng hoạt động ngân hàng từ đó giúp NHTM tiết kiệm chi phí vốn, lại vừa phù hợp với điều kiện hiện có của NHTM về trình độ nhân lực, tài chính hay công nghệ.
Ba là, với phương pháp AIRB: phương pháp này đòi hỏi năng lực rất lớn của NHTM về trình độ nhân lực và nguồn lực tài chính, điều mà rất ít các NHTM hiện nay tại Việt Nam sở hữu được. Trên thế giới cũng chỉ có các NHTM quy mô lớn mới áp dụng phương pháp này. Bên cạnh đó, NHNN Việt Nam hiện chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào hướng dẫn việc thực hiện phương pháp này nên sẽ là khó khăn lớn cho NHTM nếu triển khai.
Dưới đây, tác giả sẽ tiến hành mô phỏng việc thực hiện đo lường rủi ro danh mục cho vay tại NHTM theo phương pháp FIRB của Basel II như sau:
Ở cấp độ đơn giản theo cách tiếp cận FIRB của Basel II thì việc vỡ nợ của một