tính tập trung vào các khoản vay trung và dài hạn đã được giảm bớt, thay vào đó là gia tăng về mặt tỷ trọng của các khoản vay ngắn hạn.
Về nghiệp vụ mua bán nợ
Hiện tại có thể nói sự ra đời của VAMC là thành công khi góp phần làm tỷ lệ nợ xấu của hệ thống các TCTD giảm rõ rệt qua từng năm. Ngoài ra, việc bán đi các khoản nợ kém lành mạnh trong danh mục cũng đã góp phần tạo cơ hội cho NHTM tái cơ cấu danh mục tài sản, có vốn để đưa vào hoạt động kinh doanh sinh lời. Thêm vào đó, sự ra đời của Nghị quyết số 42/2017/QH14 về thí điểm xử lí nợ xấu của TCTD sẽ phần nào tháo gỡ khó khăn trong nghiệp vụ mua bán nợ xấu của TCTD, giúp đẩy nhanh quá trình xử lý nợ xấu trong danh mục của NHTM.
3.4.2. Các hạn chế và nguyên nhân
3.4.2.1. Về cơ cấu tổ chức quản lý rủi ro danh mục cho vay
Theo ý kiến phỏng vấn chuyên gia tại khảo sát được thực hiện tại nghiên cứu này, hiện nay việc duy trì bộ phận kiểm soát nội bộ như lớp phòng vệ thứ ba trong cơ cấu tổ chức theo mô hình “Ba lớp phòng vệ” tại các NHTM chưa thực sự đạt kết quả tối ưu, đặc biệt là tại các NHTM nhóm 2.
Các nguyên nhân của hạn chế trên bao gồm: thứ nhất, quy định tại các văn bản nội bộ của ngân hàng về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các bộ phận tại từng lớp phòng vệ có sự trùng lắp; thứ hai, chưa có sự phối hợp hiệu quả giữa các lớp phòng vệ, cụ thể ở hiện tượng chồng chéo trong thực hiện tác nghiệp và trao đổi thông tin; thứ ba, mỗi lớp phòng vệ được quản lý chức năng bởi các bộ phận khác nhau nên sẽ không có sự báo cáo thống nhất về một đơn vị đầu mối, cụ thể như sau:
Ba lớp phòng vệ trong quản lý rủi ro tín dụng
Bộ phận kinh doanh
Có thể bạn quan tâm!
- Mức Độ Sử Dụng Hai Phương Pháp Xây Dựng Cơ Cấu Tổ Chức Quản Lý Rủi Ro Danh Mục Cho Vay Tại Các Nhtm
- Mức Độ Sử Dụng Các Phương Pháp Đo Lường Rủi Ro Danh Mục Cho Vay Tại Các Nhtm
- Lượng Trái Phiếu Đặc Biệt Do Vamc Phát Hành Được Nắm Giữ Tại Các Nhtm Tại 31/12/2019 (Đơn Vị: Tỷ Đồng)
- Giải Pháp Cho Các Nhtm Việt Nam Nhằm Hoàn Thiện Quản Lý Rủi Ro Danh Mục Cho Vay
- Phân Phối Giá Trị Tổn Thất Của Danh Mục Cho Vay Theo Phương Pháp Firb
- Lãi Suất Chiết Khấu Với Khoản Vay Cho Các Hạng Tín Dụng Khác Nhau Theo Các Kì Hạn Khác Nhau
Xem toàn bộ 252 trang tài liệu này.
Bộ phận quản lý rủi ro tín dụng
Bộ phận kiểm soát nội bộ
Cấp thẩm quyền nhận báo
Báo cáo
132
Báo cáo Báo cáo
Sơ đồ 3.3: Luồng báo cáo thông tin của các tuyến phòng vệ trong mô hình “Ba lớp phòng vệ” tại NHTM
Nguồn: Khảo sát của tác giả Sơ đồ trên cho thấy, mỗi lớp phòng vệ trong cơ cấu tổ chức “Ba lớp phòng vệ” tại NHTM thực hiện báo cáo trực tiếp lên ban lãnh đạo với các đầu mối khác nhau, bao gồm: Giám đốc các khối kinh doanh, Giám đốc khối quản lý rủi ro và Hội đồng quản trị. Như vậy do không có sự đồng nhất về đơn vị tiếp nhận báo cáo trực tiếp nên sẽ có thể gây ra sự chồng chéo, sai lệch, kém hiệu quả đối với việc tiếp nhận và xử lý thông tin về rủi ro tín dụng.
3.4.2.2. Về nhận diện rủi ro danh mục cho vay
Thứ nhất, về phương pháp cảnh báo sớm (EWS) để nhận diện rủi ro danh mục cho vay, kết quả khảo sát cho thấy có khoảng 30% các NHTM thuộc nhóm 2 chưa xây dựng được hệ thống này trên thực tiễn. Bên cạnh đó, với những NHTM đã áp dụng EWS, kết quả phỏng vấn chuyên gia tại luận án cho thấy: Một là, các chỉ số cảnh báo sớm rủi ro hiện nay được đưa vào mô hình vẫn chưa bao phủ được các nguyên nhân gây ra vỡ nợ chủ yếu cho khách hàng doanh nghiệp như: Triển vọng kinh doanh, tình hình tài chính, khả năng thanh toán, tài sản đảm bảo và hồ sơ tín dụng, những thay đổi về mặt quản lý hoặc chiến lược…
Hai là, tính cập nhật và chính xác của hệ thống này chưa cao do ít sử dụng các chỉ tiêu có thể tính tự động, ví dụ như: tỷ lệ sử dụng hạn mức, số ngày quá hạn, độ biến động dòng tiền vào ra…Việc này làm giảm tính cập nhật theo thời gian thực của kết quả cảnh báo.
Ba là, ý nghĩa của kết quả đầu ra của việc áp dụng EWS mới chỉ dừng lại trên cấp độ quản lý rủi ro sau cho vay chưa mang nhiều ý nghĩa cảnh báo sớm.
Những hạn chế về áp dụng hệ thống EWS như trên có thể xuất phát từ nguyên nhân trình độ công nghệ và phần mềm sử dụng, chất lượng và tính sẵn có của thông tin từ phía khách hàng vay, hoặc do nhận thức của ban lãnh đạo ngân hàng vẫn chưa đề cao vai trò của EWS trong quản lý rủi ro tại đơn vị mình.
Thứ hai, về nhóm các phương pháp và mô hình hiện đại để nhận diện rủi ro tín dụng trên danh mục cho vay thông qua đánh giá chất lượng danh mục cho vay trong quá khứ, các phương pháp như phân tích dịch chuyển (Migration analysis), phân tích Vintage (Vintage analysis) hầu như chưa được sử dụng tại các NHTM ở cả hai nhóm nghiên cứu. Nguyên nhân để lý giải về hạn chế này là do sự thiếu hụt về trình độ công nghệ và nhân lực tại các NHTM, bởi các phương pháp này đòi hỏi kĩ thuật phân tích chất lượng danh mục cho vay phức tạp hơn so với phương pháp phân tích xu hướng (Trend report) mà hiện nay các NHTM đang áp dụng phổ biến hơn.
3.4.2.3. Về đo lường rủi ro danh mục cho vay
Thứ nhất về phương pháp luận sử dụng trong đo lường rủi ro, kết quả khảo sát cho thấy, các NHTM ở Việt Nam hiện nay gần như chưa áp dụng phương pháp AIRB theo khuyến nghị của Basel II và nhóm các mô hình định lượng dùng để đo lường và dự báo rủi ro danh mục cho vay trong tương lai. Nguyên nhân có thể chỉ ra ở đây xuất phát từ hai phía:
Về mặt khách quan, việc áp dụng phương pháp AIRB còn hạn chế do chưa có các hướng dẫn thực hiện cụ thể từ phía NHNN.
Về mặt chủ quan, việc chưa áp dụng các phương pháp trên là do hạn chế về tính chính xác của hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ tại NHTM, độ sẵn có và tính chính xác của dữ liệu đầu vào, trình độ phát triển công nghệ và vận dụng các phần mềm thống kê định lượng cũng như trình độ của cán bộ thực hiện công tác định lượng rủi ro tín dụng tại các NHTM.
Thêm vào đó, với các phương pháp luận hiện nay NHTM đang sử dụng đều
chưa ước lượng được tương quan vỡ nợ giữa các khoản vay trong danh mục, dẫn tới kết quả đo lường về mức độ rủi ro của danh mục cho vay chưa chính xác. Trên thực tế, việc tính toán hệ số tương quan vỡ nợ này là không hề dễ dàng bởi quy mô danh mục cho vay của NHTM là rất lớn, các số liệu thống kê về khách hàng vay chưa đầy đủ và cập nhật, hơn nữa còn thiếu những hướng dẫn mang tính định hướng chung của cơ quan quản lý về cách xác định hệ số này tại các NHTM.
Thứ hai về tính ứng dụng của các kết quả đo lường trong thực tiễn quản lý rủi ro danh mục cho vay, kết quả khảo sát chỉ ra mức độ vận dụng tại các NHTM nhóm 2 ở mức chưa cao. Nguyên nhân chủ yếu dẫn tới hạn chế này là do các kết quả định lượng không có độ tin cậy cao mà xuất phát từ việc các phương pháp, mô hình đo lường được sử dụng chưa hiệu quả hoặc chưa đúng theo lý thuyết và chất lượng thông tin đầu vào còn thấp.
3.4.2.4. Về sử dụng các công cụ quản lý rủi ro danh mục cho vay
Về quản lý rủi ro từng khoản vay trong danh mục
Thứ nhất, về phân loại nợ theo hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ. Tuy tất cả các NHTM trong hệ thống hiện nay đều đã xây dựng được hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ, nhưng việc áp dụng hệ thống này trên thực tế trong quản lý rủi ro danh mục cho vay tại NHTM vẫn còn những mặt hạn chế như sau:
Một là, về dữ liệu đầu vào cho hệ thống xếp hạng tín dụng. Hệ thống này sử dụng hai nhóm tiêu chí: tài chính và phi tài chính. (i) Đối với nhóm tiêu chí tài chính: số liệu hiện nay được lấy từ báo cáo tài chính của khách hàng, tuy vậy các số liệu được sử dụng mới chỉ tập trung xoay quanh Bảng cân đối kế toán và Báo cáo kết quả kinh doanh, các tiêu chí sử dụng số liệu từ Báo cáo lưu chuyển tiền tệ còn ít dù đây là báo cáo tài chính quan trọng trong việc đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng. (ii) Đối với nhóm tiêu chí phi tài chính, dữ liệu sẽ được thu thập từ việc phỏng vấn, điều tra khách hàng, trong đó việc đưa bảng hỏi cho khách hàng tự trả lời là phần lớn mà rất ít sự kiểm tra lại. Như vậy tính chính xác của các nguồn số liệu này không cao.
Hai là, về các tiêu chí đánh giá khách hàng vay để đưa ra kết quả xếp hạng tín dụng. Xét khái quát thì các tiêu chí hiện nay các NHTM sử dụng còn chưa khách quan giữa các nhóm khách hàng (đặc biệt trong nhóm khách hàng doanh nghiệp), vẫn còn nhiều tiêu chí mang đánh giá chủ quan của cán bộ xếp hạng, cách xây dựng mức thang điểm chuẩn để phân hạng chưa đồng đều, các tiêu chí đưa ra chưa đầy đủ và bao quát toàn bộ năng lực trả nợ của khách hàng, tỷ trọng điểm của nhóm tiêu chí tài chính và phi tài chính còn có sự chênh lệch lớn (hiện nay toàn bộ các NHTM đang duy trì tỷ trọng chỉ tiêu phi tài chính cao hơn).
Ba là, về nhận thức và kinh nghiệm của cán bộ thực hiện xếp hạng tín dụng. Việc áp dụng hệ thống xếp hạng tín dụng hiện không còn mới mẻ, tuy vậy vẫn có những cán bộ chưa nhận thức đúng về tầm quan trọng của hệ thống này và ý nghĩa của nó trong quản lý rủi ro với khoản vay, do vậy khi tiến hành xếp hạng theo hướng qua loa, chưa trung thực. Bên cạnh đó kinh nghiệm của cán bộ trong việc xây dựng hệ thống xếp hạng và thực hiện đánh giá rủi ro theo kết quả xếp hạng vẫn còn hạn chế.
Tất cả những hạn chế trên đã dẫn tới thực trạng về kết quả xếp hạng tín dụng khách hàng bằng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ của NHTM còn chưa chính xác, do vậy với cùng một khách hàng được xếp hạng thì mỗi NHTM lại đưa ra một kết quả đánh giá về hạng mức tín dụng khác nhau. Điều này dẫn tới khó khăn cho trước hết là NHTM trong việc đánh giá mức độ rủi ro và đưa ra công cụ quản lý rủi ro chính xác trên khách hàng vay, sau đó là NHNN với tư cách là cơ quan quản lý vĩ mô về thông tin tín dụng của khách hàng vay trên hệ thống các NHTM.
Những nguyên nhân có thể chỉ ra để lí giải cho những hạn chế trên về hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ bao gồm: phương pháp luận mô hình để xây dựng bộ chỉ tiêu xếp hạng tín dụng chưa sát với thực tế, chất lượng và tính đa dạng của thông tin đầu vào được sử dụng để xếp hạng tín dụng không cao, đội ngũ nhân sự thực hiện xếp hạng tín dụng chưa được chú trọng đào tạo và còn thiếu kinh nghiệm.
Thứ hai, về triển khai bảo hiểm tín dụng cho từng khoản vay. Việc thực hiện bảo hiểm tín dụng cho các khoản vay trong danh mục chưa được thực hiện triệt để tại các NHTM nhóm 2 khi mới chỉ một nửa các NHTM thực hiện sản phẩm này. Điều này cho thấy các NHTM nhóm này chưa chú trọng vào việc bảo hiểm rủi ro cho khoản vay, mà nguyên nhân có thể do mục tiêu về mở rộng quy mô danh mục cho vay và đảm bảo tỷ lệ sinh lời nên việc mua bảo hiểm tín dụng bị hạn chế.
Về nghiệp vụ mua bán nợ
Thực trạng cho thấy phần lớn các khoản nợ NHTM bán được hiện nay là giao dịch mua bán nợ xấu với VAMC mà khối lượng các khoản vay được mua bán với các chủ thể khác trên thị trường ngoài VAMC là rất thấp. Hơn nữa, dù bán nợ cho VAMC nhưng đây không phải là hình thức mua đứt, bán đoạn, mà trách nhiệm xử lý nợ xấu vẫn thuộc về phía ngân hàng. Tuy bán nợ cho VAMC, nhưng mỗi năm, ngân hàng vẫn phải trích lập dự phòng rủi ro 20% cho trái phiếu đặc biệt VAMC phát hành và lợi nhuận của ngân hàng vẫn sẽ bị sụt giảm, thậm chí ăn mòn cả vốn điều lệ với những NHTM có tỷ lệ nợ xấu cao.
Những hạn chế như trên trong sử dụng công cụ mua bán nợ để quản lý rủi ro danh mục cho vay tại NHTM xuất phát từ các nguyên nhân sau:
Một là, những vướng mắc trong mua bán nợ của NHTM hiện nay tập trung ở quy định của pháp luật đối với thị trường mua bán nợ và thẩm quyền của các bên tham gia mua bán là chưa đầy đủ và đơn vị mua nợ (ví dụ như VAMC) chưa được trao nhiều quyền hạn đối với các khoản vay được mua.
Hai là, do thiếu cơ sở pháp lý về định giá khoản vay làm cơ sở để bên mua và bên bán tham khảo. Điều này dẫn đến tình trạng bên bán là các NHTM khó xác định giá trị khoản vay, từ đó hạn chế sự phát triển của thị trường mua bán nợ.
Ba là, thị trường Việt Nam hiện thiếu các nhà môi giới chuyên nghiệp với vai trò thúc đẩy nhanh quá trình thực hiện giao dịch giữa bên mua và bên bán nợ. Ngoài ra các đơn vị môi giới còn đóng vai trò quan trọng khác là thực hiện thủ
tục mua bán một cách chuyên nghiệp, đảm bảo an toàn về mặt pháp lý cho NHTM trong giao dịch.
Bốn là, thiếu vai trò của nhà quản lý thị trường bởi Chính phủ hiện chưa có sự phân giao cụ thể cho Bộ Tài chính hay NHNN có trách nhiệm quản lý thị trường mua bán nợ. Điều này dẫn đến tình trạng thiếu sự giám sát của nhà nước đối với thị trường, đồng thời không có cơ quan đầu mối hoạch định cơ chế, chính sách cho việc phát triển thị trường.
Năm là, tại Việt Nam hiện chưa có thị trường mua bán nợ tập trung, do vậy đã hạn chế và cản trợ sự tiếp cận của NHTM có nhu cầu bán nợ với các chủ thể thị trường khác.
Sáu là, các NHTM chưa chủ động công khai và minh bạch hoá thông tin liên quan đến khoản vay nên gây khó khăn cho các bên có nhu cầu mua nợ trong việc tiếp cận, tìm hiểu để đặt vấn đề mua nợ.
Về sử dụng các công cụ phái sinh tín dụng
Tại Việt Nam, do những hạn chế về trình độ công nghệ và chuyên môn trong khi thị trường tài chính còn kém phát triển nên các công cụ phái sinh tín dụng hầu như chưa được nhiều chủ thể biết đến và chưa được sử dụng trong thực tế quản lý rủi ro danh mục cho vay của các ngân hàng. Nguyên nhân của hạn chế này là bởi trình độ của thị trường tài chính nói chung và thị trường tín dụng nói riêng của Việt Nam hiện vẫn còn ở mức thấp và chưa phát triển đầy đủ, đặc biệt là các hoạt động liên quan đến các lựa chọn với các công cụ hiện đại trong xử lý nợ (như chứng khoán hóa, mua bán nợ, mua bán và sáp nhập, phái sinh tín dụng…). Để thực hiện được các công cụ trên, nền tảng cơ sở hạ tầng, thể chế, đặc biệt là các quy định về hệ thống kế toán và tính tự chủ của NHTM đóng vai trò rất quan trọng, tuy vậy các yếu tố này ở Việt Nam vẫn chưa được chú trọng.
Kết luận chương 3
Trong chương 3, tác giả sử dụng phương pháp khảo sát và phỏng vấn chuyên gia tại các NHTM trong khoảng thời gian từ 1/1/2019 đến 31/12/2019 và phân tích các số liệu, dữ liệu thứ cấp trong giai đoạn 2017-2019 để đưa ra khái quát thực
trạng quản lý rủi ro danh mục cho vay tại các NHTM Việt Nam về các nội dung bao gồm: cơ cấu tổ chức quản lý rủi ro, nhận diện rủi ro, đo lường rủi ro và sử dụng các công cụ quản lý rủi ro danh mục cho vay. Mẫu nghiên cứu bao gồm 16 NHTM Việt Nam chia thành hai nhóm: nhóm 1 gồm 9 NHTM được NHNN lựa chọn thí điểm thực hiện quản lý rủi ro theo chuẩn mực Basel II và nhóm 2 gồm 7 NHTM nằm ngoài nhóm 1 được tác giả lựa chọn ngẫu nhiên. Các kết quả phân tích thực trạng là cơ sở để đưa ra các đánh giá về kết quả đạt được cũng như các hạn chế trong việc thực hiện bốn nội dung trên về quản lý rủi ro danh mục cho vay tại các NHTM Việt Nam. Đây là căn cứ để luận án đưa ra các giải pháp hoàn thiện quản lý rủi ro danh mục cho vay tại các NHTM Việt Nam trong thời gian tới tại chương 4.
CHƯƠNG 4: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ RỦI RO DANH MỤC CHO VAY TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM
4.1. Định hướng quản lý rủi ro tín dụng tại các NHTM Việt Nam
Sau đây là một số định hướng chung về quản lý rủi ro tín dụng tại các NHTM Việt Nam trong bối cảnh của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, các quy định pháp lý trong nước và các hiệp ước Basel đang trong lộ trình triển khai:
Thứ nhất, về áp dụng các chuẩn mực của Basel trong quản lý rủi ro tín dụng. Từ năm 2014, theo công văn số 1601/NHNN-TTGSNH, NHNN đã chủ động xây dựng lộ trình triển khai và áp dụng Basel II đối với hệ thống NHTM và đã chọn 10 NHTM thí điểm áp dụng Basel II. Sau khi một số NHTM trong nhóm này được Thống đốc NHNN trao quyết định được áp dụng Thông tư 41 trước thời hạn một năm, ngành Ngân hàng đã chứng kiến những biến chuyển mạnh mẽ của các NHTM còn lại để tuân thủ Basel II. Khác với Basel I, Basel II không chỉ đưa ra các yêu cầu về quản lý rủi ro mà còn có các yêu cầu về quản trị điều hành, quản lý vốn. Do đó, việc thực hiện Thông tư 41/2016/TT-NHNN cũng như các