đoạn, từ quy hoạch đội ngũ GV cho 10-20 năm, chiến lược đào tạo (trong đó có đào tạo liên tục), sử dụng, xây dựng môi trường hoạt động (trong đó có các chính sách đãi ngộ, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động nghề nghiệp, đánh giá, đề bạt, thuyên chuyển,...). Tác giả đã phân tích sâu về chiến lược đào tạo của các cơ sở đào tạo theo chuẩn nghề nghiệp GV do Bộ GD&ĐT qui định được làm là căn cứ chuẩn đầu ra cho các cơ sở đào tạo. Tuy nhiên, tác giả chủ yếu tập trung vào phân tích đào tạo đối với cấp THCS và THPT ở cấp TH chưa được đề cập đến, trong đó có đối tượng đào tạo GV là người DTTS.
Luận án tiến sĩ chuyên ngành QLGD của tác giả Lê Trung Chinh (2015) với đề tài “Phát triển đội ngũ GV THPT thành phố Đà Nẵng trong bối cảnh hiện nay ” [5], đã tổng kết khá phong phú công tác nghiên cứu xung quanh vấn đề phát triển đội ngũ giáo viên, đồng thời đề xuất nhiều giải pháp khả thi để phát triển đội ngũ GV THPT. Tuy nhiên, vấn đề đi sâu nghiên cứu của đề tài là đội ngũ GV THPT của một vùng/khu vực có điều kiện tương đối thuận lợi.
Theo Bùi Thị Ngọc Diệp: “Đổi mới phương thức đào tạo ở trường phổ thông dân tộc nội trú tỉnh đáp ứng nhu cầu đào tạo cán bộ dân tộc thiểu số trong giai đoạn hiện nay” [9], tác giả nhấn mạnh chất lượng giáo dục vùng dân tộc thiểu số chưa đạt được như mong muốn có nhiều nguyên nhân trong đó có nguyên nhân về đội ngũ GV: Hầu hết GV hiện nay đã đạt chuẩn và trên chuẩn về đào tạo. Tuy nhiên, đội ngũ GV công tác ở vùng dân tộc thiểu số còn bộc lộ những mặt hạn chế như: khả năng vận dụng phương pháp dạy học mới; kĩ thuật dạy học lớp ghép; nhận thức về giới và quyền trẻ em; về giáo dục hòa nhập và kĩ năng sống; khả năng nói Tiếng DTTS; những hiểu biết về phong tục tập quán dân tộc, đặc điểm tâm lí của học sinh DTTS… Một trong những giải pháp đó là nâng cao chất lượng GV đó là cần tổ chức bồi dưỡng thường xuyên về: trình độ chuyên môn, phương pháp giảng dạy, giới, bình đẳng giới, quyền trẻ em, vận dụng công nghệ trong dạy học, Tiếng DTTS, văn hóa dân tộc và tri thức địa phương. Nghiên cứu đã chỉ ra những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục ở vùng dân tộc thiểu số trong đó đội ngũ GV là hết sức quan trọng. Luận án kế thừa một số những lưu ý về vấn đề chất lượng ở vùng dân tộc và miền núi
Như vậy, qua các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước cho thấy, phát triển đội ngũ giáo viên là một vấn đề quan trọng, được nhiều nhà khoa học, nhà quản
lý, các giáo viên quan tâm. Các công trình nghiên cứu đều chỉ ra vai trò, ý nghĩa của hoạt động này trong việc nâng cao chất lượng giáo dục. Có nhiều cách tiếp cận vấn đề nghiên cứu về đánh giá song chưa có công trình nào tiếp cận nghiên cứu dưới góc độ quản lý phát triển đội ngũ giáo viên theo đề án vị trí việc làm. Chính vì vậy, mong muốn nghiên cứu đề tài “Quản lý phát triển đội ngũ giáo viên trung học cơ sở thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh theo đề án vị trí việc làm trong giai đoạn hiện nay” để đóng góp một phần nhỏ trong việc nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.
1.2. Một số khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Quản lý
Có thể hiểu khái niệm quản lý theo nhiều quan điểm và cách tiếp cận khác nhau. Trong khuôn khổ của luận văn này chúng tôi chỉ đưa ra một số quan điểm chủ yếu sau đây:
* Quan điểm của các tác giả nước ngoài về quản lý
Các Mác trong bộ Tư bản đã viết: “Bất kỳ lao động nào có tính xã hội và chung trực tiếp, được thực hiện với quy mô tương đối lớn đều ít nhiều cần tới sự quản lý… Một người chơi vĩ cầm riêng lẻ thì tự điều khiển lấy mình, nhưng một dàn nhạc thì cần có nhạc trưởng” [4].
Có thể bạn quan tâm!
- Quản lý phát triển đội ngũ giáo viên trung học cơ sở thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh theo đề án vị trí việc làm trong giai đoạn hiện nay - 1
- Quản lý phát triển đội ngũ giáo viên trung học cơ sở thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh theo đề án vị trí việc làm trong giai đoạn hiện nay - 2
- Quản lý phát triển đội ngũ giáo viên trung học cơ sở thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh theo đề án vị trí việc làm trong giai đoạn hiện nay - 3
- Quản Lý Phát Triển Đội Ngũ Giáo Viên Trung Học Cơ Sở Theo Đề Án Vị Trí Việc Làm
- Đào Tạo, Bồi Dưỡng Đngv Thcs Nhằm Nâng Cao Mức Độ Đáp Ứng Yêu Cầu Vị Trị Làm Việc
- Khát Quát Về Tình Hình Giáo Dục Trung Học Cơ Sở Trên Địa Bàn Thành Phố Hạ Long, Tỉnh Quảng Ninh
Xem toàn bộ 136 trang tài liệu này.
Theo A.G.Afanaxev: “Quản lý con người có nghĩa là tác động đến anh ta, sao cho hành vi, công việc và hoạt động của anh ta đáp ứng những yêu cầu của xã hội, tập thể, để những cái đó có lợi cho cả tập thể và cá nhân, thúc đẩy sự tiến bộ của cả xã hội lẫn cá nhân” [1].
Theo Harod Koontz - Cyrilodonrell - Heintweihrich “Quản lý là hoạt động thiết yếu, nó đảm bảo phối hợp những nỗ lực cá nhân nhằm đạt được các mục đích của nhóm. Mục tiêu của mọi nhà quản lý là nhằm hình thành một môi trường mà trong đó con người có thể đạt được các mục đích của nhóm với thời gian, tiền bạc, vật chất, và sự bất mãn cá nhân ít nhất. Với tư cách thực hành thì cách quản lý là một nghệ thuật, còn kiến thức có tổ chức về quản lý là một khoa học” [21].
Các tác giả nước ngoài định nghĩa về khái niệm quản lý có khác nhau, song có thể nhận thấy một số điểm chung là: Quản lý là biết được điều bạn muốn người khác làm, sao cho đem lại hiệu quả nhất và thúc đẩy sự tiến bộ.
* Quan điểm của các tác giả trong nước về quản lý
Tác giả Nguyễn Ngọc Quang cho rằng: “Quản lý là tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến những người lao động nói chung là khách thể quản lý nhằm thực hiện được những mục tiêu dự kiến” [36].
Tác giả Hà Thế Ngữ và Đặng Vũ Hoạt cho rằng: “Quản lý là một quá trình định hướng, quá trình có mục tiêu, quản lý một hệ thống là quá trình tác động đến hệ thống nhằm đạt được mục tiêu nhất định” [35].
Tác giả Bùi Minh Hiền, Vũ Ngọc Hải và Đặng Quốc Bảo định nghĩa: “Quản lí là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lí tới đối tượng quản lí nhằm đạt được mục tiêu đề ra” [26].
- Tác giả Nguyễn Bá Dương cho rằng: "Hoạt động quản lí là sự tác động qua lại một cách tích cực giữa chủ thể quản lí và đối tượng quản lí qua con đường tổ chức, là sự tác động điều khiển, điều chỉnh tâm lý và hành động của các đối tượng quản lí, lãnh đạo cùng hướng vào hoàn thành những mục tiêu nhất định của tập thể và xã hội” [10].
- Theo tác giả Trần Quốc Thành: "Quản lí là sự tác động của chủ thể quản lí để chỉ huy, điều khiển, hướng dẫn các quá trình xã hội, hành vi và hoạt động của con người nhằm đạt được mục đích, đúng với ý chí nhà quản lí, phù hợp với quy luật khách quan” [38].
Tuy có nhiều cách hiểu, cách diễn đạt khác nhau, song theo chúng tôi có thể hiểu: Quản lí là sự cộng tác có tổ chức, có định hướng của chủ thể quản lí đến khách thể quản lí trong mỗi tổ chức nhằm làm cho tổ chức hoạt động và đạt được mục tiêu đặt ra. Quản lí là sự tác động, điều khiển, chỉ huy, hướng dẫn các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người nhằm đạt được mục đích đề ra. Quản lí còn là một quá trình tác động có mục đích vào hệ thống nhằm làm thay đổi hệ thống, thông qua các chức năng kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra để thực hiện hoạt động quản lí.
1.2.2. Đội ngũ, đội ngũ giáo viên
1.2.2.1. Đội ngũ
Từ điển Tiếng Việt giải thích: “Đội ngũ là tập hợp một số đông người, cùng chức năng nghề nghiệp thành một lực lượng” [42].
Khái niệm đội ngũ dùng cho các tổ chức trong xã hội một cách khá rộng rãi như: Đội ngũ tri thức, đội ngũ thanh niên xung phong, đội ngũ giáo viên… Các
khái niệm đó đều xuất phát theo cách hiểu thuật ngữ quân sự về đội ngũ, đó là gồm nhiều người, tập hợp thành một lực lượng, hàng ngũ chỉnh tề.
Tuy nhiên ở một nghĩa chung nhất chúng ta hiểu: Đội ngũ là tập hợp một số đông người, hợp thành một lực lượng để thực hiện một hay nhiều chức năng, có thể cùng nghề nghiệp hoặc khác nghề, nhưng có chung mục đích xác định; họ làm việc theo kế hoạch và gắn bó với nhau về lợi ích vật chất và tinh thần cụ thể.
Như vậy, khái niệm về đội ngũ có thể diễn đạt nhiều cách khác nhau, nhưng đều thống nhất: Đó là một nhóm người, một tổ chức, tập hợp thành một lực lượng để thực hiện mục đích nhất định. Do đó, người quản lí nhà trường phải xây dựng, gắn kết các thành viên tạo ra đội ngũ, trong đó mỗi người có thể có phong cách riêng, nhưng phải có sự thống nhất cao về mục tiêu cần đạt tới.
1.2.2.2. Đội ngũ giáo viên
Khái niệm về đội ngũ giáo viên cũng đã được nhiều tác giả nước ngoài quan niệm như là những “chuyên gia” trong lĩnh vực giáo dục. Họ nắm vững tri thức về nội dung giảng dạy mà họ phải đảm nhiệm và hiểu biết dạy học và giáo dục trong lĩnh vực của họ như thế nào (có kỹ năng và phương pháp, nghiệp vụ...); có mong muốn cũng như khả năng cống hiến tài năng và sức lực của họ đối với hoạt động dạy học - giáo dục. Đối với Việt Nam, khái niệm đội ngũ giáo viên được dùng để chỉ một tập hợp người bao gồm: cán bộ quản lý, giáo viên và nhân viên. Và nếu chỉ đề cập đến những đặc điểm đặc thù riêng về hoạt động nghề nghiệp của ngành giáo dục thì đội ngũ được nói đến ở trên chủ yếu bao gồm đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Không có thầy giáo thì không có giáo dục... không có giáo dục, không có cán bộ thì không nói gì đến kinh tế - văn hóa” [33]. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, người giáo viên luôn là tâm điểm của hệ thống giáo dục là người giữ vai trò quyết định trong quá trình dạy học và đặc trưng trong việc định hướng giáo dục.
Phân tích về vai trò của GV và đội ngũ GV, tác giả Đặng Quốc Bảo xác định cụ thể “Giáo viên, đội ngũ giáo viên có vai trò rất quan trọng cho sự thành bại của sự nghiệp giáo dục. Sản phẩm của họ khác với sản phẩm của các loại hình lao động khác ở chỗ: sản phẩm này tích hợp cả nhân tố tinh thần và vật chất, đó là “Nhân cách- Sức lao động”. Thành quả của họ vừa tác động vào hình thái, ý thức xã hội,
vừa hình thành sức lao động kỹ thuật thúc đẩy sự năng động của đời sống thị trường. Ở đây là thị trường sức lao động... Sứ mệnh của giáo viên và đội ngũ giáo viên có ý nghĩa cao cả đặc biệt. Họ là bộ phận lao động tinh hoa của đất nước. Lao động của họ trực tiếp và gián tiếp thúc đẩy sự phát triển đất nước, cộng đồng đi vào trạng thái phát triển bền vững. Người ta nhận thấy rằng thành công của các cuộc cải cách giáo dục phụ thuộc dứt khoát vào “ý chí thay đổi’ cũng như chất lượng giáo viên” [2].
Giáo viên là “máy cái” trong hệ thống giáo dục. Chất lượng, nhân cách, phẩm chất đạo đức và lý tưởng của đội ngũ này như thế nào sẽ ảnh hưởng to lớn và trực tiếp đến sản phẩm mà họ đào tạo ra - đó chính là những con người - những công dân xây dựng xã hội. Vai trò của giáo viên là người truyền thụ các kiến thức tinh hoa của nhân loại, đồng thời là người tổ chức, chỉ đạo hướng dẫn các học sinh để các em chủ động, tích cực, sáng tạo, lĩnh hội tri thức. Bên cạnh đó, giáo viên còn là nhà giáo dục, người định hướng nghề nghiệp cho các em trong tương lai. Giáo viên thông qua các hoạt động của mình góp phần trực tiếp, tích cực vào việc hình thành và phát triển nhân cách cho học sinh.
Giáo viên là chức danh nghề nghiệp của người dạy học trong các trường phổ thông, trường nghề và trường mầm non, đã tốt nghiệp các trường sư phạm sơ cấp, trung cấp, đại học hoặc sư phạm mẫu giáo. Nhiệm vụ của người giáo viên là truyền thụ toàn bộ các kiến thức và kỹ năng quy định trong chương trình bộ môn của bậc học, cấp học, ngoài ra còn có trách nhiệm phụ đạo cho học sinh kém và bồi dưỡng học sinh giỏi, có năng khiếu. Người giáo viên không chỉ dạy tốt các kiến thức chuyên môn mà còn phải chú ý dạy người, bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, đạo đức để học sinh mình phát triển toàn diện.
Từ những định nghĩa nêu trên, có thể quan niệm: Đội ngũ giáo viên là một tập hợp (có tổ chức) những người làm nghề dạy học - giáo dục, có chung một nhiệm vụ là thực hiện các mục tiêu giáo dục đã đề ra cho tổ chức đó. Họ làm việc có kế hoạch, theo sự phân công của tổ chức, vì mục tiêu đã đề ra và gắn kết chặt chẽ với nhau thông qua các quyền lợi và trách nhiệm được thiết lập trong khuôn khổ quy định của pháp luật.
* Đội ngũ giáo viên trung học cơ sở
Đội ngũ giáo viên THCS là những người làm công tác giảng dạy - giáo dục trong trường THCS, có cùng nhiệm vụ giáo dục, rèn luyện học sinh THCS, giúp các
em hình thành và phát triển nhân cách theo mục tiêu giáo dục đã xác định cho cấp học. Theo quan điểm hệ thống, tập hợp các GV của một trường THCS nhất định được gọi là ĐNGV của trường THCS đó. Đây là một hệ thống mà mỗi thành tố trong đó có mối quan hệ với nhau, bị ràng buộc bởi những cơ chế xác định. Vì lẽ đó, mỗi tác động vào các thành tố đơn lẻ của hệ thống vừa có ý nghĩa cục bộ vừa có ý nghĩa trên toàn thể với toàn bộ hệ thống.
Tại điều 30 của Điều lệ trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông và trường phổ thông có nhiều cấp học đã nêu: Giáo viên trường trung học là người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà trường, gồm: Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng, giáo viên bộ môn, giáo viên làm công tác Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (bí thư, phó bí thư hoặc trợ lý thanh niên, cố vấn Đoàn), giáo viên làm Tổng phụ trách Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh (đối với trường trung học có cấp tiểu học hoặc cấp THCS), giáo viên làm công tác tư vấn cho học sinh [3].
1.2.3. Phát triển, phát triển đội ngũ giáo viên trung học cơ sở
1.2.3.1. Phát triển
Theo Từ điển Tiếng Việt 2009, “Phát triển là làm cho biến đổi theo chiều hướng tăng, từ ít đến nhiều, hẹp đến rộng, thấp đến cao, đơn giản đến phức tạp” [42].
Theo David C.Koten, “Phát triển là một tiến trình, qua đó, các thành viên của xã hội tăng được những khả năng của cá nhân và định chế của mình để huy động và quản lí các nguồn lực, tạo ra những thành quả bền vững nhằm cải thiện chất lượng cuộc sống phù hợp với nguyện vọng của họ” [8].
Tóm lại, mọi sự vật, hiện tượng, con người, xã hội hoặc là biến đổi để tăng về số lượng, thay đổi chất lượng hoặc dưới tác động của bên ngoài làm cho biến đổi tăng tiến đều được coi là sự phát triển.
1.2.3.2. Phát triển đội ngũ giáo viên trung học cơ sở
Phát triển ĐNGV có nhiều quan điểm khác nhau; có một số quan điểm cho rằng phát triển GV là thúc đẩy một loạt động cơ có hệ thống, thoả mãn hứng thú, ý chí, nguyện vọng và nhu cầu cá nhân để phát triển sự nghiệp của họ, đồng thời đáp ứng nhu cầu tương lai của tổ chức.
Sparks và Luocks - Horsley (1990) cho rằng phát triển GV là một quá trình cải tiến kỹ xảo công tác, tri thức và thái độ của GV nhà trường [dẫn theo 20].
Phát triển ĐNGV là quá trình nâng cao kết quả thực hiện nhiệm vụ và tạo ra những thay đổi của giáo viên bằng việc thực hiện các giải pháp đào tạo, bồi dưỡng kết hợp với các giải pháp quản lí khác nhằm thúc đẩy việc học tập có tính tổ chức của các giáo viên theo mục tiêu phát triển đội ngũ giáo viên đã được cơ quan quản lý hoạch định.
Phát triển ĐNGV có nội dung tương đồng với phát triển nguồn nhân lực nói chung, đồng thời có những nét đặc thù do yêu cầu đặc thù của đội ngũ giáo viên nói riêng. Theo đó, phát triển ĐNGV quan tâm trực tiếp đến kết quả thực hiện công việc (cả công việc hiện tại và tương lai) của ĐNGV bằng việc tạo ra những thay đổi trong kinh nghiệm cá nhân của mỗi GV thông qua việc trang bị cho họ kiến thức, kỹ năng và thái độ (phẩm chất và năng lực) cần thiết.
Phát triển ĐNGV là đòi hỏi tất yếu khách quan của sự nghiệp GD&ĐT và mang tính toàn diện, thể hiện trên cả hai bình diện nhận thức và tổ chức thực hiện kế hoạch, nội dung phát triển số lượng, chất lượng và cơ cấu ĐNGV. Mặt khác, phát triển GV xuất phát từ chính nhu cầu của họ để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. GV là người đặt ra kế hoạch, xây dựng nội dung bồi dưỡng và chính họ thực hiện và kiểm tra kết quả đạt được. Việc phát triển GV phải dựa vào lực lượng và nguồn lực tại chỗ, phát triển GV và căn cứ vào việc giảng dạy và giáo dục thực tế hàng ngày của họ.
Chúng ta đang sống trong thời kỳ của nền kinh tế tri thức, nền kinh tế tri thức đã làm thay đổi hẳn cơ cấu kinh tế lao động, nền kinh tế chủ yếu dựa vào trí tuệ con người. Tri thức ngày càng trở thành nhân tố trực tiếp của chức năng sản xuất. Đầu tư cho phát triển tri thức trở thành yếu tố then chốt cho sự tăng trưởng kinh tế vững chắc. Như vậy đòi hỏi đội ngũ giáo viên phải có trình độ chuyên môn, năng lực dạy học cao hơn trước. Vì vậy, việc phát triển đội ngũ giáo viên là điều tất yếu không thể thiếu được, đây cũng là một phần việc quan trọng trong việc phát triển nguồn nhân lực.
Phát triển đội ngũ giáo viên thực chất là xây dựng và phát triển cả ba yếu tố: Quy mô, chất lượng, cơ cấu. Trong đó, quy mô được thể hiện bằng số lượng. Cơ cấu thể hiện sự hợp lý trong bố trí về nhiệm vụ, độ tuổi, giới tính, chuyên môn, nghiệp vụ... hay nói cách khác là tạo ra một ê kíp đồng bộ, đồng tâm có khả năng hỗ trợ, bù đắp cho nhau về mọi mặt. Chất lượng là yếu tố quan trọng nhất trong việc xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên.
Xét về quy mô, chất lượng, cơ cấu dưới góc nhìn về việc phát triển nguồn nhân lực của nền kinh tế tri thức thì nội dung xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên bao gồm:
- Phát triển đội ngũ giáo viên chính là thực hiện quy hoạch, đào tạo, tuyển chọn, bổ nhiệm, sắp xếp bố trí (thể hiện bằng số lượng, cơ cấu).
- Sử dụng đội ngũ giáo viên là triển khai việc thực hiện các chức năng quản lí của đội ngũ, thực hiện bồi dưỡng, phát triển năng lực dạy học, phẩm chất chính trị; đánh giá, sàng lọc.
- Tạo động cơ và môi trường cho sự phát triển là tạo điều kiện cho đội ngũ giáo viên phát huy vai trò của họ như thực hiện tốt các chính sách đãi ngộ, chế độ khen thưởng, kỷ luật, xây dựng điển hình tiên tiến nhân ra diện rộng. Tạo cơ hội cho cá nhân có sự thăng tiến, tạo ra những ước mơ, hoài bão kích thích cho sự phát triển. Tạo cơ hội cho đội ngũ giáo viên có điều kiện học tập, bồi dưỡng, giao lưu, trao đổi kinh nghiệm.
Từ những lý luận về phát triển đội ngũ giáo viên nêu trên ta có thể hiểu: Phát triển đội ngũ giáo viên THCS thực chất là xây dựng, quy hoạch, bồi dưỡng, tuyển chọn, đào tạo, sắp xếp bổ nhiệm, tuyển dụng cũng như tạo môi trường và động cơ cho đội ngũ này phát triển. Để thực hiện tốt việc này chúng ta cần nghiên cứu đặc điểm của từng địa phương, vùng miền, số lượng và đặc trưng của các trường THCS, bối cảnh về chính trị, kinh tế - xã hội hiện tại, yêu cầu đáp ứng được yêu cầu của vị trí việc làm đối với đội ngũ giáo viên cùng những đặc điểm tâm lý của người giáo viên để đề ra nội dung, giải pháp cho phù hợp.
1.2.4. Vị trí việc làm
Vị trí việc làm là một quy phạm pháp luật, điều này được thể hiện trong khoản 3 điều 7 Luật Cán bộ, công chức và Điều 7 Luật Viên chức. Theo đó VTVL là công việc gắn với chức vụ, chức danh để thực hiện quản lý, sử dụng công chức, viên chức [17].
VTVL là công việc gắn với chức danh, chức vụ, cơ cấu và ngạch công chức đã xác định biên chế và bố trí công chức trong cơ quan, tổ chức, đơn vị từ việc tuyển dụng, bố trí sử dụng, nâng ngạch, đề bạt, bổ nhiệm, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá…[16].
Tại luật Viên chức 2010 thì VTVL được hiểu là: “Công việc hoặc nhiệm vụ gắn với chức danh nghề nghiệp hoặc chức vụ quản lý tương ứng; là căn cứ xác định số