Mối Quan Hệ Giữa Dlst Và Các Hình Thức Du Lịch Khác


2.3 Du lịch thiên nhiên và du lịch sinh thái‌

Trong những năm gần đây, đã có nhiều nghiên cứu về các loại hình du lịch kết hợp với quản lý tài nguyên thiên nhiên như du lịch bền vững, du lịch thiên nhiên (DLTN), du lịch sinh thái. Những hình thức du lịch này được xem như một sự phát trển kinh tế đảm bảo an toàn cơ bản cho môi trường.

Ngoài đặc điểm dựa vào môi trường thiên nhiên, nhấn mạnh vào việc mang lại trải nghiệm và kiến thức thực tế cho khách du lịch, điểm khác biệt quan trọng nhất của DLST so với các hình thức DLTN khác là nó hoạt động trong mối quan hệ phát triển bền vững giữa môi trường, kinh tế và văn hóa- xã hội (Weaver, 2002, tr. 3). DLTN chỉ xuất phát từ những khu vực thiên nhiên sẵn có mà không có một sự quan tâm cụ thể nào về việc bảo vệ chúng, trong khi DLST không chỉ đơn giản là tận hưởng cảnh quan thiên nhiên, mà nó phải thay đổi thái độ và hành vi của khách du lịch trong việc bảo vệ tài nguyên thiên nhiên (Orams, 1995 trích trong Kline, 2001, tr.2).

Hình 2.3: Mối quan hệ giữa DLST và các hình thức du lịch khác


Du lịch dã ngoại (Wildlife tourism)- trong khu du lịch hoặc trong rừng. Tham quan hoặc có tiếp xúc với động vật hoang dã. Có thể bao gồm một phần của du lịch thám hiểm và du lịch sinh thái

Du lịch thám hiểm (Adventure

Du lịch thiên nhiên

(Natural Area

Tourism)- nhấn mạnh vào các hoạt động thám hiểm, có thể xảy ra trong

một môi trường thiên nhiên

Du lịch

sinh thái

(Ecotourism)- dựa vào thiên nhiên, giáo dục và hỗ trợ bảo tồn thiên

nhiên

Tourism)

- hình thức du lịch dựa vào thiên nhiên

Nguồn: Gale và Hill, Ecotourism and Environmental sustainability: An Introduction (2009, tr.5)

Theo UNEP (2002, tr. 10), những yếu tố tạo thành DLST bao gồm: (i) sự đa dạng sinh học;

(ii) sự thân thiện của người dân địa phương; (iii) sự học tập từ trải nghiệm; (iv) sự hành động có trách nhiệm của du khách và ngành du lịch; (v) khách hàng mục tiêu là các nhóm nhỏ và dịch vụ được cung cấp bởi các doanh nghiệp quy mô nhỏ; (vi) sự sử dụng tối thiểu


các nguồn tài nguyên không tái chế được; và (vii) nhấn mạnh sự tham gia, cơ hội kinh doanh của những người địa phương, đặc biệt là người dân ở vùng nông thôn. DLST tạo việc làm trong nước và các cơ hội kinh tế cho người dân địa phương, nhưng nếu không theo dõi cẩn thận, và vì mục tiêu lợi nhuận, quốc gia sẽ phát triển lệch hướng với những dự án quy mô lớn để thu hút và phục vụ lượng du khách lớn. Ngoài ra, nếu các dự án phát triển độc quyền bởi các doanh nghiệp nước ngoài vì lợi ích ngắn hạn, cả môi trường và nhân dân địa phương có thể phải trả giá (Garen, 2000 trích trong Dasenbrock, 2001) (Xem phụ lục 2.1).

2.4 Tổng quan kinh nghiệm phát triển DLST

2.4.1 Kinh nghiệm của Costa Rica trong phát triển DLST

Trong khi nhiều quốc gia đang tập trung vào công nghiệp hóa và đô thị hóa nhanh chóng, Costa Rica đã đầu tư phát triển DLST như là chìa khóa để phát triển kinh tế từ những năm 1980 (Koens, Dieperink vàMiranda, 2009). Năm 2008, ngành du lịch và lữ hành đóng góp cho đất nước Trung Mỹ này 3.77 tỉ USD, chiếm 13.5% GDP.

Ngành DLST của Costa Rica được hưởng lợi nhờ sự ủng hộ mạnh mẽ từ phía chính phủ, sự giúp sức của các cộng đồng địa phương trong việc bảo tồn và phát triển hệ sinh thái. Cụ thể, sự thành công của ngành DLST Costa Rica có được nhờ các yếu tố sau:

- Đa dạng sinh thái: Costa Rica có sự đa dạng sinh học đáng kinh ngạc nằm trong một khu vực tương đối nhỏ, bao gồm núi, núi lửa, các bãi biển và rừng nhiệt đới. Hệ động thực vật đa dạng được bảo vệ trong 24 công viên quốc gia, chiếm 21% lãnh thổ của đất nước.

- Vị trí: tiếp giáp với Hoa Kỳ, nhà xuất khẩu du lịch số 1 thế giới. Hàng năm Hoa Kỳ đóng góp gần 50% du khách nước ngoài tới Costa Rica.

- An toàn và tính ổn định: Costa Rica vẫn đảm bảo là một địa điểm du lịch an toàn, dù tình trạng hỗn loạn liên tục xảy ra ở nước láng giềng.

- Sự tham gia tích cực của cơ quan nhà nước và hệ thống quy chuẩn môi trường chặt chẽ: có sự vận động môi trường một cách thuyết phục và mạnh mẽ. Nhiều nghiên cứu được thực hiện bởi chính phủ, tổ chức phi chính phủ và các trường đại học đã chỉ ra mối quan hệ giữa bảo tồn đa dạng sinh học và hoạt động kinh tế. Các chương trình được thực hiện trong 10 đến 15 năm đã dẫn đến sự hiểu biết rằng các khu bảo tồn đa dạng sinh học tạo ra nhiều lợi ích cho sự phát triển kinh tế của đất nước như hệ thống khu bảo tồn quốc gia, chương trình thanh toán cho dịch vụ môi trường và chứng nhận du lịch bền vững (Phụ lục 2.2 và 2.3).


- Sự hỗ trợ từ quốc tế: nỗ lực bảo vệ môi trường và sự phát triển của ngành DLST Costa Rica nhận được sự hỗ trợ rất lớn từ các nước và các tổ chức thế giới như IMF, WB, và USAID.

- Sáng kiến liên kết DLST với các quốc gia láng giềng càng thúc đẩy cho DLST của Costa Rica phát triển.

- Đào tạo và chất lượng nguồn nhân lực: Ở Costa Rica, 54% số nhân viên trong ngành du lịch có trình độ trung học hoặc đại học.

- Phát triển CSHT quy mô nhỏ thay vì những khách sạn cao tầng để duy trì sự cân bằng giữa môi trường và DLST.

2.4.2 Chương trình nhãn sinh thái

Hiện nay chương trình nhãn sinh thái được các nước trên thế giới sử dụng rất phổ biến, có thể kể đến chương trình Hoa môi trường của EU, Lá xanh của Thái Lan, tiêu chí du lịch bền vững toàn cầu GTSC (Phụ lục 2.4). Nhãn sinh thái được cấp cho hàng hóa hoặc dịch vụ có tác động đến môi trường ít hơn sản phẩm cùng loại, đáp ứng tập hợp các tiêu chí môi trường công bố bởi quốc gia. Mục tiêu của chương trình nhằm nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường, thành lập hệ thống cấp chứng chỉ khách sạn đạt tiêu chuẩn môi trường trong cả nước từ đó nâng cao NLCT của ngành du lịch.


CHƯƠNG 3‌‌

PHÂN TÍCH NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỤM NGÀNH DU LỊCH TỈNH KIÊN GIANG


3.1 Các điều kiện về nhân tố đầu vào

3.1.1 Nguồn tài sản vật chất

Vị trí địa lý

Kiên Giang là tỉnh nằm về phía Tây Nam của Việt Nam và là một trong 13 tỉnh thuộc vùng ĐBSCL, giáp các tỉnh An Giang, Cần Thơ, Hậu Giang, Cà Mau và Bạc Liêu; phía Tây Nam giáp vịnh Thái Lan với hơn 200km bờ biển; phía Bắc giáp Campuchia với đường biên giới dài 56.8km. Thành phố Rạch Giá là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của tỉnh, cách thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM) 250 km về phía Tây (khoảng 6 giờ đi xe ô tô), cách thành phố Cần Thơ 115 km (khoảng 2-3 giờ đi xe ô tô).

Tỉnh Kiên Giang nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm quanh năm, khí hậu chia làm 02 mùa mưa, nắng rõ rệt. Hệ thống sông ngòi, kênh rạch dày đặc, phân bố khắp địa bàn tỉnh, với chiều dài 2,054.93 km, tạo điều kiện cho giao thông đường thủy phát triển.

Tài nguyên thiên nhiên

Tài nguyên rừng

Kiên Giang là một trong hai tỉnh có diện tích rừng lớn nhất vùng ĐBSCL với tổng diện tích đất lâm nghiệp năm 2011 là 91,286 ha, chiếm 14.47% diện tích toàn tỉnh, trong đó rừng sản xuất 22,675 ha, rừng phòng hộ 28,887 ha và rừng đặc dụng 39,727 ha2. Nổi bật hơn

hết, Kiên Giang có khu DTSQ Thế giới với diện tích trên 1.1 triệu ha, bao gồm 6 huyện: Kiên Lương, Hòn Đất, An Biên, An Minh, Phú Quốc, U Minh Thượng và 3 khu bảo tồn quan trọng là Vườn Quốc gia U Minh Thượng, Vườn Quốc gia Phú Quốc và rừng phòng hộ Kiên Giang- Hà Tiên- Kiên Hải, có tính đa dạng sinh học cao với 1,500 loài thực vật có mạch, 77 loài động vật, 222 loài chim, 107 loài bò sát và lưỡng cư (GIZ và AusAID, 2011). Trên đảo Phú Quốc còn có rừng cây họ Dầu còn sót lại ở Việt Nam với khoảng 12,000 ha. Thêm vào đó, Kiên Giang là một trong số ít các tỉnh vùng ĐBSCL có đồng thời hai loại rừng tràm: rừng tràm tự nhiên và rừng tràm trồng. Hệ sinh thái rừng tràm ở Kiên



2Cà Mau có diện tích đất lâm nghiệp khoảng 100,000 ha, là tỉnh có diện tích rừng lớn nhất vùng ĐBSCL


Giang là một nguồn tài nguyên thiên nhiên quý giá, bên cạnh các giá trị bảo tồn thiên nhiên, bảo vệ môi trường, đây còn là một nhân tố tiềm năng phát triển DLST (Nguyễn Quang Trung, 2008, tr.16). Tuy nhiên, tính nguyên vẹn và đa dạng sinh học tại đây đang bị đe dọa bởi các công trình xây dựng và mở rộng đường giao thông dọc theo bờ biển.

Tài nguyên núi- biển- đảo

Kiên Giang có diện tích tự nhiên lớn nhất ĐBSCL (6,348 km2), trong đó gần 10% là hải đảo với 140 hòn đảo lớn nhỏ và 05 quần đảo3, có nhiều bờ biển vẫn giữ được nét hoang sơ vì chưa được khai thác đầu tư. Việc sở hữu một số lượng lớn hải đảo cùng với đường bờ biển dài 200km đã tạo ra nét đặc thù cho Kiên Giang, giúp tỉnh có điều kiện thuận lợi để phát triển hình thức du lịch biển – đảo so với các tỉnh lân cận.

Phú Quốc là đảo lớn nhất của Việt Nam, có diện tích 589.23 km2, có địa hình độc đáo gồm

dãy núi nối liền chạy từ Bắc xuống Nam đảo, xung quanh có 22 đảo nhỏ, có rừng nguyên sinh chiếm 63.74% diện tích, hệ động thực vật phong phú, có nhiều bãi tắm đẹp. Đảo là địa danh du lịch hấp dẫn với 12,000 ha thảm cỏ biển và 700 ha rặng san hô bao quanh, đây cũng chính là nơi sinh sống của các loài sinh vật qúy hiếm, đang bị đe dọa như Vích và Bò biển.

Ngoài Phú Quốc, huyện đảo Kiên Hải nằm cách thành phố Rạch Giá khoảng 30km, với 23 hòn đảo lớn nhỏ nằm trải dài gần 100km đường biển cũng là một địa điểm du lịch mới được đưa vào khai thác trong những năm gần đây.

Vùng Hà Tiên – Kiên Lương có khoảng 80 hòn đảo với kích thước và hình dạng khác nhau, nổi bật bởi cảnh quan địa mạo karst với các khối núi đá vôi hình tháp, hình chóp phân bố biệt lập, và có hệ thống các tầng hang động phong phú (Phụ lục 3.1). Các núi đá vôi vùng Hà Tiên - Kiên Lương là cảnh quan karst duy nhất ở miền Nam Việt Nam có sự đa dạng sinh học cao cả về thực vật và động vật (Hà Quang Hải và Nguyễn Ngọc Tuyến, 2011).

Tài nguyên khoáng sản

Bên cạnh tài nguyên du lịch phong phú, Kiên Giang còn là tỉnh có nguồn khoáng sản dồi dào. Tỉnh có khoảng 23 loại khoáng sản thuộc các nhóm như: nhóm nhiên liệu (than bùn), nhóm không kim loại (đá vôi, đá xây dựng, đất sét…), nhóm kim loại (sắt, Laterit sắt…), nhóm đá bán quý (huyền thạch anh - opal…), trong đó chiếm chủ yếu là khoáng sản không



3 Năm quần đảo là An Thới, Thổ Châu, Nam Du, Bà Lụa và Hải Tặc


kim loại dùng sản xuất VLXD, xi măng. Theo quy hoạch của tỉnh, trữ lượng đá vôi cho khai thác sản xuất VLXD là 255 triệu tấn, đảm bảo đủ nguyên liệu cho các nhà máy xi măng, với công suất 3 triệu tấn/năm trong thời gian khoảng 50 năm.

Lượng tài nguyên khoáng sản thuận lợi cho phát triển công nghiệp VLXD là một trở ngại lớn cho sự phát triển du lịch của tỉnh. Sự ô nhiễm môi trường, mất vẻ đẹp cảnh quan thiên nhiên khi các núi đá vôi bị khai thác dở dang dọc trên tuyến đường dẫn vào các khu du lịch Hà Tiên, Kiên Lương đã khiến cho hoạt động du lịch ở đây không phát triển từ nhiều năm nay.

3.1.2 Cơ sở hạ tầng

Mạng lưới giao thông đường bộ, đường thủy và đường hàng không kết nối các tỉnh và các nước trong khu vực thuận lợi cho việc giao lưu phát triển du lịch của tỉnh (Phụ lục 3.2). Tỉnh có hệ thống giao thông đường bộ nối các tỉnh lân cận khá thuận lợi, với các quốc lộ 80, 61, 63. Hiện nay có hơn 10 hãng xe ở miền Nam khai thác tuyến về Rạch Giá, đặc biệt từ TP.HCM và Cần Thơ về Kiên Giang và ngược lại. Tuy nhiên chất lượng đường bộ trong tỉnh vẫn còn yếu và số lượng đường được rải nhựa còn rất thấp so với các tỉnh được đánh giá PCI năm 2011 (Hình 3.1). Thêm vào đó, từ TP.HCM đến Kiên Giang mất khoảng 6 giờ đi xe, trong khi về các tỉnh khác thuộc ĐBSCL chỉ khoảng 2- 4 giờ như Tiền Giang, An Giang, hai tỉnh có tiềm năng du lịch miệt vườn và du lịch tâm linh. Đây là một trở ngại đối với du lịch Kiên Giang nếu tỉnh không biết khai thác lợi thế đặc thù so với các tỉnh khác.

Hệ thống giao thông đường thủy thuận lợi với các tuyến đường sông giao lưu các tỉnh ĐBSCL và TP.HCM; đường biển nối Rạch Giá, Hà Tiên với các đảo Phú Quốc, Thổ Châu, Lại Sơn, Nam Du từ 1- 3 giờ di chuyển, đảm bảo nhu cầu đi lại của người dân. Tuy nhiên tuyến đường thủy chưa được địa phương quy hoạch chặt chẽ nên lượng tàu vận hành trên các tuyến không ổn định và chưa đảm bảo an toàn cho hành khách, an ninh trật tự ở các bến cảng vẫn còn phức tạp. Ngoài ra, thời gian lưu chuyển từ các tỉnh và các nước đến Kiên Giang còn có thể rút ngắn bằng đường hàng không với sân bay chuyên dụng Rạch Sỏi và cảng hàng không quốc tế Phú Quốc.


Hình 3.1: Chỉ số PCI về cơ sở hạ tầng cứng ở Kiên Giang năm 2011


DN được thông báo trước về việc cắt điện (% thời gian)

100.0

Tỉ lệ % đường trong tổng số đường do tỉnh quản lý được rải nhựa

80.0

60.0

40.0

20.0

0.0

Đánh giá chất lượng dịch vụ viễn

thông (% Tốt hoặc

Rất tốt)

Tỉ lệ % đường trong tỉnh (quốc lộ, tỉnh lộ, huyện lộ) được rải nhựa

Đánh giá chất lượng mạng internet (% Tốt hoặc Rất tốt)

Trung vị Thấp nhất Cao nhất

Kiên Giang

Đánh giá chất lượng đường bộ (% Tốt hoặc Rất tốt)

Nguồn: VCCI, Báo cáo chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh năm 2011 Được hỗ trợ bởi sự kết nối thuận lợi với các tỉnh kế cận, nhưng tuyến đường giao thông nội tỉnh vẫn còn nhiều bất cập, đặc biệt ở Phú Quốc, nơi thu hút hơn 70% lượng khách du lịch đến Kiên Giang. Cảng hàng không quốc tế đã mở ra cơ hội cho Phú Quốc phát triển tiềm năng du lịch, tuy nhiên các hệ thống CSHT giao thông đồng bộ bao gồm tuyến trục giao thông Bắc- Nam, đường vòng quanh đảo và các tuyến đường nhánh xung quanh chưa kết nối với sân bay.

Đến nay Phú Quốc vẫn chưa có lưới điện quốc gia, điện được phát bằng các tổ máy chạy bằng dầu diesel. Đường dây trung áp và hạ áp mới chỉ có ở những trục đường chính và một số trung tâm xã, thị trấn, chỉ có 75% số hộ trên đảo được sử dụng điện. Hiện Công ty Điện lực 2 đang triển khai lắp đặt thêm 5 tổ máy phát diesel, nâng công suất phát điện lên 15MW và thực hiện dự án tuyến cáp ngầm 110KV xuyên biển Hà Tiên - Phú Quốc. Tập đoàn Than và Khoáng sản đã tiến hành khảo sát chuẩn bị đầu tư xây dựng nhà máy nhiệt điện than ở Phú Quốc.


3.1.3 Nguồn nhân lực

Năm 2011, dân số tỉnh Kiên Giang là 1,721,700 người, là tỉnh đông dân xếp thứ 2 ở ĐBCSL (sau An Giang) và cao thứ 12 so với cả nước, trong đó có đến 74% hộ sống ở nông thôn. Trên địa bàn tỉnh chủ yếu có 3 dân tộc sinh sống, trong đó dân tộc Kinh chiếm 85.67%, dân tộc Khmer chiếm 12.49%, dân tộc Hoa chiếm 1.76%. Dân số phân bố không đồng đều và có sự khác biệt giữa các vùng của tỉnh, đông dân nhất là vùng Tây Sông Hậu, chiếm 37.8%; vùng Tứ giác Long Xuyên chiếm 32.1%; vùng U Minh Thượng chiếm 23.4% và vùng hải đảo chiếm 6.6% dân số toàn tỉnh. Lực lượng lao động trong độ tuổi của tỉnh là 1,139,986 người, chiếm 66.2%; tốc độ tăng bình quân của lực lượng lao động của tỉnh 5 năm qua (2007- 2011) là 2.75%/ năm. Phần lớn lực lượng lao động tập trung ở khu vực nông thôn (73.05%) (UBND tỉnh Kiên Giang, 2012).

Trong năm 2001 đến 2011, cơ cấu lao động chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng lao động ở các khu vực có năng suất cao: khu vực công nghiệp xây dựng từ 6.78% lên 12.08%, khu vực dịch vụ từ 17.13% lên 26.12%, lao động khu vực nông- lâm- ngư nghiệp giảm từ 76.09% xuống 61.80%. Trong đó, lao động trong lĩnh vực du lịch của tỉnh tăng bình quân 28.58% từ năm 2005 đến 2010.

Bảng 3.1: Số lượng lao động du lịch tỉnh Kiên Giang


Năm

2005

2006

2007

2008

2009

2010

Người

1,703

2,214

2,877

3,738

4,858

5,978

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 90 trang tài liệu này.

Phân tích năng lực cạnh tranh của cụm ngành du lịch tỉnh Kiên Giang - 3


Nguồn: Sở VH-TT-DL Kiên Giang, Lao động trong ngành du lịch năm 2011 Số lượng lao động du lịch tăng chủ yếu trong các doanh nghiệp, nơi chiếm hơn 98% lượng lao động du lịch, lao động cơ quan quản lý chiếm rất ít. Trong số lao động ở lĩnh vực du lịch có hơn 78.45% là lao động trẻ.

Số lượng lao động phục vụ du lịch chưa qua đào tạo còn chiếm tỷ lệ khá cao. Năm 2009 chỉ có 6.36% lao động trong lĩnh vực du lịch đã qua đào tạo, đến năm 2010 số lao động được đào tạo để phục vụ du lịch tăng không đáng kể, chiếm 6.79% (Phụ lục 3.3). Hơn 90% lao động trong doanh nghiệp KDDL có trình độ thấp hơn trung cấp.

Xem tất cả 90 trang.

Ngày đăng: 02/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí