Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Việc Quản Lý Nhà Nước Về Bảo Hiểm Xã Hội Đối Với Người Lao Động Ở Doanh Nghiệp Nông Nghiệp


Quỹ BHXH là quỹ tài chính tập trung được dùng để chi trả các chế độ BHXH cho cho người lao động (còn gọi là chi BHXH) gồm chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hưu trí, tử tuất, đóng bảo hiểm y tế cho đối tượng hưởng lương hưu hoặc hưởng tai nạn lao động bệnh nghề nghiệp hàng tháng; chi phí quản lý hoạt động bộ máy của hệ thống BHXH; chi đầu tư xây dựng cơ sở vật chất; chi khen thưởng; chi bảo toàn và tăng trưởng quỹ BHXH, trong các nội dung chi trên thì chi BHXH cho đối tượng là khoản chi lớn nhất và chủ yếu nhất [25]; [29].

- Đối tượng thụ hưởng các chế độ Bảo hiểm xã hội

Quản lý đối tượng thụ hưởng BHXH là nhiệm vụ trọng tâm đối với cơ quan BHXH trong quản lý hoạt động chi trả. Quản lý đối tượng phân theo từng loại chế độ được hưởng để theo dõi đối tượng hết hạn hưởng, chết... và cắt giảm kịp thời.

Quản lý đối tượng thụ hưởng BHXH là công tác thường xuyên liên tục của cơ quan BHXH tỉnh Đắk Lắk, tránh tình trạng đối tượng chi trả không còn tồn tại mà kinh phí chi trả vẫn được cấp, gây ra sự tổn thất cho quỹ BHXH, dẫn đến tình trạng trục lợi của các đơn vị và cá nhân.

- Chi trả các chế độ Bảo hiểm xã hội

- Phân cấp thực hiện chi trả các chế độ Bảo hiểm xã hội

+ Đối với BHXH tỉnh: BHXH tỉnh chịu trách nhiệm toàn diện trong việc chi trả, quyết toán các chế độ BHXH trên địa bàn tỉnh quản lý.

BHXH tỉnh trực tiếp chi trả các chế độ ốm đau, thai sản, các chế độ BHXH một lần cho người lao động do BHXH tỉnh quản lý thu BHXH.

+ Đối với BHXH huyện: Tổ chức chi trả và quyết toán chế độ ốm đau, thai sản, các chế độ BHXH một lần cho người lao động do BHXH huyện quản lý thu BHXH và các trường hợp BHXH tỉnh uỷ quyền. Chi trả các chế độ BHXH cho người lao động có hồ sơ đề nghị giải quyết hưởng BHXH nộp tại BHXH huyện theo quy định.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.

- Lập, xét duyệt dự toán chi Bảo hiểm xã hội


Quản lý nhà nước về Bảo hiểm xã hội đối với người lao động tại các doanh nghiệp nông nghiệp tỉnh Đắk Lắk - 5

Căn cứ vào từng loại đối tượng, mức hưởng và theo nguồn đảm bảo theo quy định hiện hành để xây dựng dự toán chi BHXH cho năm sau.

+ Đối với BHXH huyện: Theo hướng dẫn của BHXH tỉnh, hàng năm BHXH huyện lập dự toán chi BHXH cho đối tượng hưởng trên địa bàn huyện. BHXH huyện căn cứ vào số đối tượng hàng tháng đang hưởng tại huyện, tỷ lệ đối tượng tăng giảm qua các năm trước theo từng loại đối tượng cụ thể và tình hình kinh tế phát triển của địa phương để xây dựng kế hoạch cho năm sau từ đó xây dựng dự toán chi BHXH cho năm sau. Trong năm, nếu có biến động phát sinh chi ngoài kế hoạch được duyệt, BHXH huyện phải báo cáo với Bảo hiểm xã hội tỉnh để xem xét bổ sung kinh phí kịp thời đảm bảo nguồn chi trả cho đối tượng.

+ Đối với BHXH tỉnh: BHXH tỉnh lập dự toán chi BHXH cho đối tưởng hưởng trên địa bàn toàn tỉnh. Dự toán chi BHXH được lập trên cơ sở tổng hợp dự toán chi của BHXH các huyện và chi trả trực tiếp tại tỉnh. Trong năm, nếu có phát sinh chi vượt kế hoạch đã được BHXH Việt Nam duyệt, BHXH tỉnh phải báo cáo, giải trình về số chi tăng để BHXH Việt Nam xem xét cấp kinh phí để đảm bảo chi trả kịp thời cho đối tượng.

Cấp phát kinh phí: Căn cứ trên kế hoạch đã được thống nhất và ban hành, hàng tháng kinh phí BHXH được BHXH Việt Nam cấp phát về, BHXH tỉnh tạm ứng kinh phí cho bưu điện tỉnh Đắklắk sau đó bưu điện tỉnh cấp cho các đại lý chi trả các huyện để cấp phát lương hưu, trợ cấp một lần khi nghỉ hưu, tuất, mai táng phí cho đối tượng thụ hưởng, BHXH tỉnh trực tiếp cấp kinh phí xuống BHXH các huyện và bưu điện qua hệ thống tài khoản ngân hàng mở tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn.

- Lập báo cáo, quyết toán chi Bảo hiểm xã hội

+ Đối với BHXH tỉnh

Hàng tháng, căn cứ vào danh sách trả lương hưu và trợ cấp đối với các đối tượng hưởng hàng tháng, danh sách chi trợ cấp một lần và truy lĩnh do BHXH tỉnh


gửi về cho BHXH huyện chi trả, danh sách đối tượng chưa nhận trợ cấp làm căn cứ để xét duyệt chi trợ cấp cho BHXH huyện.

Hàng quý, kiểm tra xét duyệt quyết toán chi ốm đau thai sản, thẩm định chi quyết toán chi các chế độ BHXH với hoạt động tài chính của toàn tỉnh theo quy định hiện hành.

+ Đối với BHXH huyện

Hàng tháng, kế toán BHXH huyện lập hai bộ báo cáo chi lương hưu và trợ cấp BHXH, danh sách đối tượng chưa hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH, danh sách báo giảm lương hưu và trợ cấp BHXH, một bộ gửi BHXH tỉnh, một bộ lưu tại BHXH huyện.

Hàng quý, lập báo cáo chi ốm đau thai sản, báo cáo chi lương hưu và trợ cấp, báo cáo thu hồi chi sai năm trước, chi sai trong năm, danh sách đối tượng chưa hưởng trợ cấp một lần gửi BHXH tỉnh, một bản lưu tại BHXH huyện.

- Phương thức chi trả

Đối tượng hưởng BHXH nằm rãi rác trên khắp địa bàn trong toàn tỉnh. Tuỳ từng đơn vị, địa phương, địa bàn và từng loại đối tượng BHXH tỉnh Đắk Lắk đã áp dụng các phương thức chi trả trực tiếp hoặc gián tiếp.

- Phương thức chi trả trực tiếp: Cơ quan BHXH tỉnh và huyện, đại lý chi trả bưu điện các huyện trực tiếp chi trả đến từng đối tượng hưởng BHXH ở các thôn buôn, xã phường thị trấn nơi đối tượng thụ hưởng cư trú. Kết thúc đợt chi trả cán bộ chi trả có danh sách đối tượng giảm, chưa nhận và quyết toán lại với kế toán BHXH huyện.

- Phương thức chi trả gián tiếp: Là phương thức chi trả cho đối tượng thụ hưởng các chế độ thông qua đại lý chi trả bưu điện hoặc qua hệ thống ngân hàng (ATM). Bưu điện tỉnh có trách nhiệm chuyển khoản số tiền chi trả của đối tượng thụ hưởng vào số tài khoản mà đối tượng thụ hưởng đăng ký và quyết toán lại với cơ quan BHXH.

- Kinh phí chi Bảo hiểm xã hội


Cùng với việc quản lý đối tượng thụ hưởng BHXH, thực hiện tốt các khâu trong quy trình chi trả cũng như áp dụng các phương thức chi trả hợp lý cần phải chú trọng đến quản lý nguồn kinh phí chi BHXH cho đối tượng thụ hưởng. Trong quá trình chi trả trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk đều được thực hiện bằng tiền mặt. Khối lượng tiền mặt tồn quỹ là rất lớn và thường kéo dài trong suốt thời gian chi trả, do vậy cần phải tăng cường quản lý chặt chẽ. Trách nhiệm quản lý nguồn kinh phí chi BHXH là thủ trưởng cơ quan, kế toán, thủ quỹ, cán bộ trực tiếp chi trả hoặc đại diện chi trả và thực hiện tốt những quy định về quản lý an toàn tiền mặt như lập kế hoạch tiền mặt cần thiết đủ cho chi trả, bảo đảm quỹ tiền mặt được quản lý an toàn, thực hiện kiểm đếm quỹ tiền mặt, thường xuyên kiểm tra quỹ tiền mặt.

1.1.4. Nhân tố ảnh hưởng đến việc quản lý nhà nước về Bảo hiểm xã hội đối với người lao động ở doanh nghiệp nông nghiệp

1.1.4.1. Nhận thức của các doanh nghiệp nông nghiệp về Bảo hiểm xã hội

Tham gia BHXH là nghĩa vụ và quyền lợi của người lao động và của các doanh nghiệp. Nhưng hiện nay có rất nhiều doanh nghiệp còn né tránh đặc biệt là các doanh nghiệp nông nghiệp với đặc thù riêng của mình, cố tình trì hoãn tham gia trích nộp BHXH cho người lao động mà họ đang sử dụng. Lý do là khi doanh nghiệp tham gia đóng BHXH cho người lao động doanh nghiệp sẽ phải tốn kém hết một phần chi phí, ảnh hưởng đến nguồn kinh phí hoạt động kinh doanh của đơn vị. Do vậy cần xác định rằng họat động này là loại chính sách mà doanh nghiệp tham gia nhằm đảm bảo được tính ổn định nhân sự, các doanh nghiệp có tham gia đóng BHXH thì lúc này mới quản lý chính sách BHXH đối với người lao động tại các doanh nghiệp đó [25].

1.1.4.2. Nhận thức của người lao động

Hiện nay phần lớn các lao động trong doanh nghiệp nông nghiệp là lao động phổ thông chưa qua đào tạo nên mức độ nhận thức và tiếp cận những thông tin chưa được sâu rộng, thêm vào đó với tâm lý sợ mất việc làm nên không giám đấu tranh đòi quyền lợi cho bản thân khi các chủ sử dụng lao động không đóng BHXH cho


họ. Do vậy, cần phải có một cơ chế quản lý tốt đối tượng thuộc diện tham gia BHXH, điều này phụ thuộc vào việc tuyên truyền, phổ biến sâu rộng để nâng cao trình độ nhận thức của người lao động về cơ chế, chính sách BHXH [25].

1.1.4.3. Trình độ chuyên môn và thái độ phục vụ của cán bộ Bảo hiểm xã hội

Thái độ của cán bộ BHXH là nhân tố ảnh hưởng đến việc quản lý chính sách BHXH. Đối với cơ quan BHXH đội ngũ cán bộ chính sách BHXH có kinh nghiệm và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao, có phẩm chất tốt thì sẽ xử lý kịp thời, linh hoạt và hiệu quả các chế độ BHXH theo quy định của nhà nước, làm tốt và có hiệu quả trong công tác tuyên truyền góp phần nâng cao nhận thức cho người lao động về quyền lợi của họ khi tham gia BHXH.

1.1.4.4. Chế độ chính sách của nhà nước về Bảo hiểm xã hội

Chế độ, chính sách của nhà nước ảnh hưởng rất lớn đến việc quản lý các chính sách của BHXH. Nếu các quy định thích hợp, quản lý chặt chẽ và có các biện pháp chế tài cụ thể và nghiêm khắc, sẽ làm cho cả doanh nghiệp và người lao động không thể trốn nộp BHXH thì lúc đó các chế độ chính sách mà người lao động được thụ hưởng mới được giải quyết từ đó người lao động thấy rằng việc tham gia BHXH là có ích cho họ và gia đình trong hiện tại và tương lai, từ đó người lao động tích cực tham gia và đòi quyền lợi của mình. Do đó, cần phải xác định chính xác lợi ích mà BHXH mang lại cho người lao động, và kích thích người lao động đấu tranh giành quyền lợi của mình, buộc chủ doanh nghiệp phải thực hiện trích nộp BHXH.

Mức lương làm cơ sở đóng phí BHXH: Nếu như tham gia BHXH bằng với thu nhập thực tế của người lao động trong thời kỳ họ còn làm việc, như vậy, mức thụ hưởng các chế độ sẽ cao, đảm bảo chi phí cho người lao động trong lúc hoạn nạn.

Phương thức tính tiền đóng BHXH và mức thụ hưởng. Tiền đóng BHXH và mức thụ hưởng từ các chế độ, chính sách thuộc BHXH đều phụ thuộc vào mức lương trích nộp BHXH. Chỉ có một số ít lao động đóng BHXH với mức lương đúng với mức thực lĩnh. Còn lại người sử dụng lao động thuộc các công ty TNHH, DNTN, công ty cổ phần trong nước và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài


thường đóng BHXH theo mức lương tối thiểu theo từng thời kỳ do nhà nước quy định. Mức lương này rất thấp so với thu nhập thực tế của người lao động được hưởng.

Tỷ lệ trích nộp để tham gia BHXH. Đây là yếu tố quan trọng tác động đến nguồn thu vào quỹ BHXH, ngoài ra tỷ lệ này cũng ảnh hưởng đến tâm lý của người tham gia BHXH, họ so sánh giữa mức đóng góp và mức thụ hưởng, các bên tham gia BHXH, nếu cảm thấy không phù hợp sẽ cố tình né tránh làm thất thu cho quỹ BHXH nhất là các doanh nghiệp hiện nay họ phải đóng góp một tỷ lệ rất cao trên tổng quỹ lương cho BHXH, tuy nhiên, họ không hề nhìn thấy được lợi ích gì khi tham gia BHXH, chỉ thấy phải bỏ ra chi phí quá lớn. Do đó, nếu tỷ lệ thích hợp, cân bằng giữa người lao động và người sử dụng lao động sẽ làm cho doanh nghiệp cảm thấy có sự công bằng, từ đó, tích cực tham gia BHXH hơn.

Các chế độ BHXH mà người tham gia được hưởng. Tuỳ theo điều kiện kinh tế xã hội của mỗi nước trong từng thời kỳ mà mỗi nước quy định các chế độ trợ cấp và mức trợ cấp đối với người tham gia BHXH.

Mức chi và tiền chi BHXH: Mức chi và tiền chi BHXH ảnh hưởng đến quỹ BHXH rất lớn, các mức chi BHXH được xác lập trên cơ sở thời gian đóng góp, mức đóng góp, tình trạng sức khoẻ, mức độ sảy ra rủi ro đối với người tham gia BHXH [25].

1.2. Cơ sở thực tiễn

1.2.1. Kinh nghiệm quản lý Bảo hiểm xã hội tại các địa phương và bài học cho tỉnh Đắk Lắk

1.2.1.1. Kinh nghiệm quản lý chính sách Bảo hiểm xã hội ở tỉnh Đắk Nông

Theo thống kê của BHXH tỉnh, tính đến hết năm 2017, toàn tỉnh có hơn

33.000 người tham gia BHXH, chiếm khoảng 8,7% lực lượng lao động trên địa bàn. Như vậy, sau 5 năm thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW, diện bao phủ BHXH chỉ tăng khoảng 0,6%. Đây là tỷ lệ khá thấp, chưa đạt được sự kỳ vọng của chính sách


và còn một khoảng cách rất xa so với mục tiêu Nghị quyết đặt ra là đến năm 2020 có 50% lực lượng lao động tham gia BHXH.

Thực tế cho thấy, ngoài đối tượng tham gia BHXH thì hiện nay, việc mở rộng đối tượng tham gia BHXH tự nguyện trên địa bàn tỉnh đang gặp rất nhiều khó khăn. Tính đến năm 2017, toàn tỉnh có 1.383 người tham gia BHXH tự nguyện, chỉ chiếm gần 0,4% lực lượng lao động.

Một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thực tế trên là do công tác tuyên truyền, vận động, triển khai về chính sách BHXH chưa thực sự sâu rộng, thiếu đồng bộ nên nhiều người dân chưa nhận thức đầy đủ về nội dung, ý nghĩa cũng như quy trình, thủ tục đăng ký khi tham gia BHXH tự nguyện. Bên cạnh đó, đối tượng tham gia BHXH tự nguyện chủ yếu là lao động tự do, lao động trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp... thường có thu nhập thấp và không ổn định.

Một thách thức không nhỏ trong công tác thu BHXH đó là tình trạng nợ đọng BHXH. Thời gian qua, các ngành chức năng đã triển khai nhiều biện pháp can thiệp nhưng đến nay, vấn đề này vẫn chưa được kiểm soát tốt, ảnh hưởng đến quỹ BHXH cũng như quyền lợi của người lao động. Thống kê của BHXH tỉnh, tính đến hết năm 2017, tổng số tiền nợ BHXH, BHYT, BHTN trên địa bàn tỉnh lên đến trên 32 tỷ đồng. Trong đó, nợ BHXH hơn 29 tỷ đồng, nợ BHYT 1,9 tỷ đồng, nợ BHTN hơn 1,16 tỷ đồng. Ngoài ra, tổng số nợ khó thu và nợ đơn vị đã khởi kiện nhưng không thi hành án gần 17 tỷ đồng.

Một thực tế nữa là hiện nay, việc quản lý, xác định đối tượng tham gia BHXH trên địa bàn gặp không ít khó khăn. Cơ quan BHXH chỉ có thể kiểm soát được đối với những doanh nghiệp thực hiện đầy đủ chế độ báo cáo tình hình sử dụng lao động và lập sổ theo dõi biến động lao động theo quy định. Còn hầu hết các cơ sở kinh doanh của hộ cá thể, doanh nghiệp nhỏ và vừa, không có tổ chức công đoàn, thì khi họ không khai báo, cơ quan BHXH không thể kiểm soát được số lượng lao động.


Ngoài ra, việc thực hiện chính sách BHXH trên địa bàn còn bộc lộ một số hạn chế nhất định. Cụ thể, cấp ủy, chính quyền một số địa phương vẫn chưa thực sự quan tâm đến công tác BHXH, chưa tập trung chỉ đạo quyết liệt và chú trọng đến công tác tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia BHXH. Công tác phối hợp liên ngành trong giám sát, kiểm tra, thanh tra, xử lý các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp vi phạm chính sách BHXH còn chưa đồng bộ, thống nhất. Việc thực hiện một số quy định mới còn bất cập. Tình trạng người lao động nhận BHXH một lần tăng nhanh [48].

1.2.1.2. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về Bảo hiểm xã hội ở tỉnh Kom Tum

Trong tổng số 695 đơn vị ở tỉnh Kom Tum nợ đọng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp với tổng số tiền gần 73 tỷ đồng có 444 đơn vị thuộc khối doanh nghiệp và 251 đơn vị thuộc khối hành chính.

Đáng chú ý nhiều đơn vị nợ với số tiền lớn, thời gian nợ kéo dài như Công ty Cổ phần đầu tư và Phát triển Duy Tân nợ 36 tháng với số tiền gần 3 tỷ đồng; Công ty Cổ phần Tấn Phát nợ 27 tháng với số tiền 1,5 tỷ đồng; Công ty Cổ phần Sâm Ngọc Linh Kom Tum nợ 45 tháng với số tiền 1,5 tỷ đồng. Ngoài ra, các đơn vị sử dụng Ngân sách Nhà nước cũng nợ bảo hiểm y tế lên đến gần 28 tỷ đồng.

Qua phân tích tình hình thực hiện chính sách BHXH trên địa bàn tỉnh Kom Tum, có thể thấy nguyên nhân dẫn đến tình trạng nợ đọng là do các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ; đơn vị sử dụng Ngân sách Nhà nước chiếm dụng tiền để chi lương cho người lao động; chưa chú trọng tới chính sách, pháp luật về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp và cố tình chây ỳ để chiếm dụng vốn; chấp nhận chịu phạt để chiếm dụng quỹ Bảo hiểm xã hội.

Từ việc phân tích thực trạng cũng như nguyên nhân dẫn đến nợ đọng BHXH thì những giải pháp để thu hồi nợ đọng được đưa ra cụ thể như sau:

- Đối với việc nợ Ngân sách các Chủ tịch UBND cấp huyện phải có trách nhiệm khi chi trả tiền lương thì đồng thời phải chuyển trả nộp vào Quỹ Bảo hiểm xã hội cho người lao động.

Xem tất cả 113 trang.

Ngày đăng: 17/09/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí