Quản lý nhà nước đối với nợ xấu của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam 1669272396 - 18


thuộc vào sự can thiệp mang tính chất chính trị. Để NHNN có được vị thế độc lập, cần đảm bảo một số yếu tố sau:

- Có đầy đủ các nguồn lực cần thiết (nguồn lực tài chính, nguồn lực nhân sự) để NHNN thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình; quy định rõ trách nhiệm và quyền hạn trong QLNN; tuân theo quy trình quản lý nhất quán trong hoạt động QLNN.

- Tiếp tục từng bước nâng cao vị thế độc lập tương đối của NHNN Việt Nam theo hướng NHTW hiện đại trong việc thực hiện chức năng NHTW và chức năng quản lý, giám sát đối với hoạt động của hệ thống các NHTM bảo đảm an toàn; là một trong các định hướng chiến lược quan trọng đã được xác định theo Đề án phát triển ngành Ngân hàng định hướng đến năm 2020 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 112/2006/QĐ-TTg ngày 24/5/2006 và ý kiến ch đạo của Bộ Chính trị theo Thông báo số 191-TB/TW ngày 01/9/2005. Nâng cao vị thế độc lập của NHNN ở đây, ch là độc lập tương đối.

Cho đến thời điểm hiện tại, NHNN vẫn là cơ quan trực thuộc Chính phủ, giống như các bộ, ngành khác, có chức năng QLNN và chịu sự quản lý, điều hành toàn diện về tổ chức và hoạt động của Chính phủ. Theo quy định tại Điều 2 Luật NHNN năm 2010 thì NHNN Việt Nam là cơ quan ngang bộ của Chính phủ, là NHTW của nước CHXH Việt Nam, thực hiện chức năng QLNN về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và ngoại hối. Hoạt động của NHNN có liên quan đến tài chính đều do Chính phủ ho c Thủ tướng quy định. M c d , bước sang năm 2020, kỳ vọng đổi mới NHNN Việt Nam theo mô hình NHTW hiện đại có vị thế độc lập hoàn toàn, là khó khăn. Tuy nhiên, có thể kỳ vọng đổi mới NHNN Việt Nam theo mô hình NHTW hiện đại có vị thế độc lập tương đối là khả thi, trên cơ sở các điều kiện và triển khai thực hiện các giải pháp cụ thể sau:

- NHNN được chủ động sử dụng các công cụ trong việc điều hành CSTT và được độc lập trong việc xác định khối lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế. Việc giao cho NHNN được độc lập trong việc xác định khối lượng tiền cung ứng, s nâng cao được vai trò của NHTW trong việc chủ động linh hoạt điều tiết khối lượng


tiền cung ứng nh m tác động đến lãi suất thị trường, góp phần đảm bảo an toàn hoạt động của hệ thống các NHTM.

- Nâng cao năng lực hoạch định, điều hành CSTT của NHNN.

- Triển khai thực hiện điều hành CSTT lạm phát mục tiêu. Thực tiễn của nhiều nước và của Việt Nam trong thời gian cho thấy, với CSTT trong ng n hạn để đạt được mục tiêu tăng trưởng đã xung đột với mục tiêu ổn định giá, làm cho lạm phát tăng cao, tác động mạnh đến nền kinh tế trong đó hệ thống NHTM phát sinh nhiều rủi ro, ảnh hưởng đến hiệu quả QLNN.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 231 trang tài liệu này.

Thứ hai, giải pháp đẩy nhanh tiến độ tái cấu trúc hệ thống NHTM. Hiệu quả QLNN đối với hoạt động của các NHTM s thấp, nếu quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng k o dài. Do đó cần tập trung đẩy nhanh tiến độ quá trình tái cấu trúc hệ thống NHTM theo lộ trình và kế hoạch đã đề ra. Ngoài việc tiếp tục triển khai các giải pháp chung nêu tại Đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn 2011 - 2015 ban hành theo Quyết định số 254/QĐ-TTg ngày 01/3/2012 của Thủ tướng Chính phủ, cần triển khai một số giải pháp cụ thể sau:

- Tiếp tục đánh giá, phân loại các NHTM thành các nhóm (nhóm NHTM yếu kém, nhóm NHTM hoạt động bình thường), từ đó NHNN có ch đạo việc xây dựng mới ho c hoàn thiện phương án tái cấu trúc đã xây dựng của từng hệ thống NHTM. Trên cơ sở phương án tái cấu trúc đã được duyệt, Cơ quan Thanh tra - Giám sát s thực hiện việc giám sát, thanh tra, kiểm tra ch t ch NHTM trong việc thực hiện phương án tái cấu trúc đảm bảo theo đúng mục tiêu, kế hoạch đã được phê duyệt. NHNN cần áp dụng các biện pháp chế tài phù hợp đối với NHTM trong việc chậm triển khai phương án tái cấu trúc đã được duyệt.

Quản lý nhà nước đối với nợ xấu của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam 1669272396 - 18

- Tạo điều kiện và khuyến khích các TCTD nước ngoài góp vốn, mua cổ phần của các NHTM Việt Nam, nhất là một số NHTMCP yếu kém nh m đẩy nhanh tiến độ tái cấu trúc các NHTM này.

- Đối với một số NHTMCP có các cổ đông hiện đang sở hữu cổ phần vượt tỷ lệ quy định ho c có vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước, nay yêu cầu phải xử lý việc sở hữu cổ phần của ngân hàng vượt giới hạn quy định tại Luật các TCTD ho c


doanh nghiệp Nhà nước phải thoái vốn đầu tư tại NHTM. Do đó NHTMCP s g p khó khăn. Để góp phần tháo gỡ khó khăn cho NHTMCP, đồng thời để đẩy nhanh tiến độ tái cấu trúc các NHTMCP này, cho phép NHNN mua lại số cổ phần này sau khi cổ đông thoái vốn.

- Có chính sách quy định miễn, giảm thuế thu nhập đối với các NHTM trong quá trình tái cấu trúc (hợp nhất, sáp nhập, mua lại).

Thứ ba, giải pháp tập trung, xử lý nợ xấu đối với các NHTM. Để giải quyết vấn đề nợ xấu một cách hiệu quả, cần nghiêm túc thực hiện các giải pháp chung sau:

- Giải quyết vấn đề nợ xấu song song với triển khai các biện pháp ngăn ch n nguy cơ phát sinh nợ xấu trong tương lai; giải quyết vấn đề nợ xấu trên cơ sở tôn trọng kỷ luật thị trường và đảm bảo thực hiện công b ng xã hội.

- Giải quyết nợ xấu và xử lý các TSĐB theo các chính sách của NHNN (xử lý tài sản bảo đảm để thanh lý nợ xấu, cơ cấu lại nợ với các hình thức thích hợp, kiểm soát ch t ch và giảm chi phí hoạt động, trích lập đủ quỹ dự phòng rủi ro và sử dụng quỹ này để xử lý nợ xấu, phối hợp ch t ch với VAMC để thực hiện các giải pháp xử lý nợ xấu…); thì vai tr của Chính phủ, các bộ ngành, địa phương và NHNN là rất quan trọng trong việc đề ra nhiều giải pháp để đẩy nhanh tiến độ xử lý nợ xấu.

Một số giải pháp cụ thể về xử lý nợ xấu như sau:

- Xử lý nợ xấu qua VAMC b ng cách xúc tiến hình thành thị trường bán nợ (chủ yếu TP.Hồ Chí Minh và Hà Nội); rà soát phân loại danh mục tài sản dựa trên nhu cầu nhà đầu tư trong nước và quốc tế; triển khai xây dựng đề án mua, bán nợ theo giá thị trường; thực hiện phương án mua bán nợ xấu theo nguyên t c thị trường; cấp bổ sung vốn điều lệ cho VAMC tăng lên ít nhất 2.000 tỷ đồng; quy định việc mua bán nợ theo giá thị trường; rút ng n thời gian làm thủ tục trong thay đổi bước giá.

- Chính phủ, các bộ ngành và của NHNN cần có cơ chế, chính sách đ c thù trong việc bán nợ xấu cho VAMC theo hướng giao cho VAMC có thực quyền trong vai trò là chủ nợ khi mua nợ xấu của các NHTM. Trước khi bán nợ, VAMC s chủ động trao đổi với NHTM bán nợ; trường hợp VAMC và NHTM không thống nhất,


VAMC được quyết định giá bán trên cơ sở định giá độc lập và VAMC được quyền lựa chọn phương thức bán theo thỏa thuận ho c đấu giá.

- Cần có quy định về quyền và trách nhiệm của các cơ quan liên quan tham gia, bảo đảm việc thu hồi, thu giữ, kiểm kê tài sản bảo đảm của các khoản nợ xấu VAMC đã mua. Hướng dẫn tạo điều kiện cho VAMC trong việc chấp thuận nội dung Hợp đồng ủy quyền khởi kiện của VAMC cho NHTM; trên cơ sở Hợp đồng ủy quyền này, NHTM được thay m t VAMC ký đơn khởi kiện và thực hiện toàn bộ quyền và nghĩa vụ của nguyên đơn. Cần có chính sách nh m tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài mua nợ, tài sản trong đó có vấn đề sở hữu bất động sản, trách nhiệm tái cơ cấu khoản nợ của nhà đầu tư nước ngoài khi mua nợ xấu…

- NHNN cần giám sát, kiểm tra việc phân phối lợi nhuận của các NHTM trên cơ sở trích lập đầy đủ và sử dụng quỹ dự phòng rủi ro để xử lý nợ xấu; ch đạo các NHTM rà soát, phân loại nợ, bán nợ xấu cho VAMC; sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định về an toàn hoạt động ngân hàng; quy chế cho vay, tăng cường quản trị rủi ro nh m hạn chế nợ xấu mới phát sinh tại các NHTM.

Thứ tư, giải pháp về xử lý sở hữu chéo trong hệ thống các NHTM. NHNN cần có đánh giá đầy đủ về tình hình sở hữu chéo trong hệ thống NHTM, từ đó rà soát lại các quy định pháp lý để tiến hành sửa đổi, bổ sung ho c xây dựng ban hành mới các quy định để kiểm soát, hạn chế, ngăn ngừa các tác động tiêu cực của sở hữu ch o đem lại đối với NHTM. Mục tiêu của việc xử lý sở hữu chéo là nh m góp phần bảo đảm cho từng NHTM, c ng như hệ thống các NHTM hoạt động an toàn, lành mạnh, bền vững và minh bạch; phản ánh đúng thực lực tình hình tài chính của NHTM và hệ thống các NHTM. Giải pháp xử lý sở hữu chéo phải thận trọng, toàn diện, triệt để, lộ trình xử lý phù hợp, bao gồm sửa đổi, hoàn thiện ho c ban hành mới cơ chế, chính sách để hạn chế sở hữu ch o và quy định an toàn hoạt động ngân hàng; xử lý đồng bộ, toàn diện và triệt để nhưng có tính đến đ c điểm của từng NHTM cụ thể. Trên tinh thần đó, cần đẩy mạnh các giải pháp sau:

- Tập trung thanh tra, giám sát, rà soát, chấn ch nh, xử lý các trường hợp vi phạm các quy định có liên quan đến vấn đề sở hữu chéo của các NHTM (quy định


về sở hữu vốn điều lệ; việc góp vốn, mua cổ phần; chuyển nhượng cổ phiếu; việc cấp tín dụng cho cổ đông và người có liên quan…). Xây dựng và ban hành lộ trình phù hợp để giảm sở hữu vốn lẫn nhau giữa các NHTM, TCTD; tạo điều kiện cho các NHTM, TCTD thoái vốn ở các NHTM, TCTD và các công ty con, công ty liên kết hoạt động không có hiệu quả.

- Giám sát ch t ch quan hệ tín dụng của các đối tượng có sở hữu chéo. Trong đó, NHNN giám sát ch t ch quan hệ tín dụng của những cổ đông và người có liên quan tại các NHTM có liên quan để một m t đánh giá khả năng tài chính của cổ đông; m t khác, xử lý tình trạng vi phạm giới hạn cấp tín dụng cho cổ đông và người liên quan.

- Phối hợp ch t ch với Ủy ban chứng khoán theo dõi, giám sát việc mua bán, chuyển nhượng cổ phần của các NHTM trên thị trường chứng khoán.

- Xử lý nghiêm minh các NHTM vi phạm các quy định về sở hữu ch o, đầu tư, bên cạnh đó cần giới hạn sở hữu vốn và cấp tín dụng c ng như các quy định an toàn khác. Sớm xây dựng ban hành mới ho c sửa đổi, bổ sung các quy trình, quy định nh m xử lý, ngăn ch n, hạn chế các tác động tiêu cực của sở hữu ch o, đầu tư chéo. Cần làm rõ các khái niệm về các loại hình sở hữu ch o và đầu tư ch o, về người có liên quan; cụ thể hóa trong Thông tư 13/2010/TT-NHNN; quy định thời hạn, trình tự, thủ tục chuyển tiếp việc cổ đông của NHTM sở hữu cổ phần vượt tỷ lệ quy định tại Luật các TCTD; quy định hướng dẫn điều kiện, hồ sơ, trình tự, thủ tục góp vốn, mua cổ phần của các NHTM, trong đó có quy định việc kiểm soát sở hữu ch o, đầu tư ch o, cho vay cổ đông và người có liên quan, nh m hạn chế chi phối, thao túng NHTM… Về lâu dài, pháp luật cần bổ sung quy định về người sở hữu cuối c ng , đồng thời hình sự hóa các vấn đề liên quan đến sở hữu ch o và đầu tư ch o để ngăn ngừa tối đa hành vi này.

- Yêu cầu các doanh nghiệp nhà nước, tổng công ty nhà nước xây dựng lộ trình thoái vốn đầu tư trong lĩnh vực ngân hàng để sớm tập trung vào ngành nghề kinh doanh chính.

- Cần quy định cụ thể hơn về các chuẩn mực kế toán theo hướng căn cứ vào


nội dung bản chất sự việc, chứ không căn cứ theo hình thức hay tên gọi của giao dịch, nh m nâng cao tính minh bạch và đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế.

- Thúc đẩy sự hợp tác, cạnh tranh lành mạnh giữa các NHTM. Hợp tác, cạnh tranh giữa các NHTM trong nền là quy luật tất yếu khách quan. Tuy nhiên hợp tác, cạnh tranh lành mạnh s mang lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế, ngược lại cạnh tranh không lành mạnh chẳng những không mang lại lợi ích mà c n tác động tiêu cực trong nền kinh tế. Vai trò NHNN luôn tạo môi trường thuận lợi để thúc đẩy sự cạnh tranh giữa các NHTM trong quá trình hoạt động. Để thúc đẩy sự hợp tác, cạnh tranh lành mạnh giữa các NHTM, cần hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng ở Việt Nam, làm rõ khái niệm hợp tác và cạnh tranh trong hoạt động của các NHTM, các TCTD để làm cơ sở cho việc xác định hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng.

Thứ năm, chủ động nâng cao chất lượng quản lý thông qua việc nâng cấp hệ thống pháp lý và hoàn thiện các chuẩn mực về kế toán và kiểm toán đảm bảo tiêu chuẩn an toàn Basel II. Nguyên nhân do hệ thống NHTM hiện nay chưa được cập nhật đầy đủ so với các quy định và tiêu chuẩn an toàn mới trong Basel. Do đó, NHNN cần tiếp tục cải cách hệ thống kế toán ngân hàng theo chuẩn mực quốc tế, đ c biệt là vấn đề về quản lý nợ xấu, đánh giá mức độ rủi ro và trích lập dự phòng, xử lý nợ xấu dựa trên xu hướng hợp nhất giữa hai chuẩn mực kế toán Mỹ và chuẩn mực kế toán quốc tế.

Bên cạnh việc nâng cao chất lượng hạ tầng cơ sở ngân hàng, NHNN c ng cần chủ trọng nâng cao hơn nữa chất lượng thông tin tín dụng tại trung tâm thông tin tín dụng CIC. Ngoài ra, NHNN cần công khai hoạt động của NHTM (công khai báo cáo tài chính) để các nhà đầu tư, đơn vị tổ chức có nhu cầu tìm kiếm thông tin về hoạt động của các NHTM. Từ đó góp phần giảm thiểu sự gia tăng của nợ xấu NHTM trong hoạt đông cung cấp tín dụng ngân hàng.

NHNN cần thực hiện đào tạo và phát triển một văn hoá giám sát mới. Thực tế, tiêu chuẩn an toàn Basel II buộc các cơ quan giám sát NHNN n m b t được các kỹ thuật đo lường, đánh giá rủi ro, nhận biết các sai phạm. Do đó cần phải thau đổi văn


hoá giám sát từ kiểm tra tuân thủ sang đánh giá rủi ro. Ngoài ra, với vai tr là cơ quan giám sát, điều hành hoạt động, NHNN cần tích cực hướng dẫn, đôn đốc các NHTM ban hành quy định về tiêu chuẩn và yêu cầu trong quản lý nợ xấu c ng như những quy định và chính sách xử lý vi phạm trong lĩnh vực tín dụng, quản lý xử lý nợ xấu tại các NHTM.

Thứ sáu, giải pháp hoàn thiện cơ chế thanh tra, giám sát đối với hoạt động NHTM:

- Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý liên quan đến Thanh tra, giám sát NHTM: Cần chú trọng việc xây dựng và ban hành kịp thời các văn bản hướng dẫn về thanh tra, giám sát NHTM, vì đây là một trong những tiền đề quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả công tác Thanh tra, giám sát. Hệ thống pháp luật nói chung, các văn bản pháp luật, cơ chế chính sách liên quan đến hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng nói riêng cần được ban hành đầy đủ, đồng bộ, phù hợp với thực tiễn, được hướng dẫn triển khai thực hiện kịp thời; tránh chồng chéo trong áp dụng, đ c biệt các văn bản pháp luật liên quan đến việc xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, các tội phạm kinh tế liên quan đến hoạt động ngân hàng. Cần kh c phục và tránh tình trạng như trước đây như: luật hết hiệu lực, nhưng văn bản hướng dẫn luật vẫn còn hiệu lực; c n các quy định khác nhau trong nguyên t c áp dụng luật chuyên ngành nhất là các quy định còn chung chung do sử dụng từ ngữ trong các quy định của luật như; c n không ít văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động ngân hàng có quy định cụ thể về quyền, nghĩa vụ, nhưng chưa có quy định về chế tài xử lý, đã dẫn đến việc gây nhiều tranh cãi và khó khăn cho công tác thanh tra, giám sát…

- Hoàn thiện cơ chế giám sát: Cần xây dựng hệ thống công nghệ thông tin hiện đại để hỗ trợ cho hoạt động giám sát từ xa, bao gồm: hệ thống giám sát an toàn vĩ mô; hệ thống an toàn vi mô; hệ thống ch tiêu, xếp hạng NHTM theo tiêu chuẩn CAMELS; hệ thống cảnh báo sớm; hệ thống quản lý thanh tra, giám sát.

- Hoàn thiện cơ chế điều hành hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng: Cơ chế điều hành hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng cần phải nhất quán, có tính hệ thống dọc từ Trung ương đến địa phương và tương thích với xu hướng quản trị


rủi ro tập trung của các NHTM. Các đơn vị Thanh tra, giám sát ngân hàng cần độc lập với NHNN - chi nhánh t nh, thành phố và chịu sự quản lý, ch đạo và hướng dẫn về công tác tổ chức, cán bộ và chuyên môn nghiệp vụ của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng. Do đó, cần tiếp tục kiện toàn mô hình tổ chức thanh tra, giám sát ngân hàng theo Đề án cải cách tổ chức và hoạt động thanh tra ngân hàng đã ban hành theo Quyết định 1976/QĐ-NHNN của Thống đốc NHNN.

- Xây dựng và hoàn thiện hạ tầng cơ sở hỗ trợ cho hoạt động Thanh tra, giám sát NHTM hiệu quả: Hoạt động Thanh tra, giám sát ngân hàng s kém hiệu quả nếu hạ tầng cơ sở yếu kém và còn bất cập. Do đó, cần thiết xây dựng và hoàn thiện hạ tầng cơ sở để hỗ trợ cho hoạt động Thanh tra, giám sát hiệu quả. Giải pháp cho việc xây dựng và hoàn thiện hạ tầng cơ sở cần tập trung vào việc hoàn thiện hệ thống kế toán các NHTM phù hợp với chuẩn mực kế toán quốc tế, nh m đảm bảo số liệu thống kê báo cáo có mức độ trung thực và độ tin cậy cao; Hoàn thiện hệ thống công nghệ thông tin hiện đại về công tác thống kê, báo cáo nh m đáp ứng yêu cầu giám sát vĩ mô và vi mô; mua s m, trang bị đảm bảo phương tiện làm việc cho đội ng Thanh tra, giám sát.

- Xây dựng cơ chế trao đổi thông tin và phối hợp hành động hữu hiệu giữa Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng với các cơ quan có liên quan. Tiếp tục đẩy mạnh hợp tác quốc tế song phương, đa phương và tham gia các hiệp ước, thỏa thuận quốc tế về Thanh tra, giám sát ngân hàng và an toàn hệ thống tài chính với các Cơ quan giám sát tài chính nước ngoài để phối hợp hành động trong giám sát rủi ro, đ c biệt là đối với các NH nước ngoài hoạt động tại Việt Nam, đồng thời để tranh thủ sự hỗ trợ kỹ thuật, công nghệ Thanh tra, giám sát tiên tiến. Bên cạnh đó, cần xây dựng cơ chế trao đổi thông tin giám sát thị trường tài chính trực tiếp giữa NHNN và Bộ Tài chính; giữa Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng và Cơ quan Thanh tra chứng khoán, Cơ quan Thanh tra bảo hiểm. Theo đó, các Cơ quan giám sát tài chính phi ngân hàng có nghĩa vụ cung cấp đầy đủ, kịp thời các thông tin về hoạt động thanh tra, giám sát, kể cả các kết luận Thanh tra, giám sát, cảnh báo theo đề nghị của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 24/11/2022