Chủ tịch Hội đồng sẽ ủy quyền trách nhiệm cho các ủy ban chuyên môn thực hiện từng chức năng được chỉ định trong cơ cấu và ủy ban chuyên môn phải báo cáo trở lại cho Hội đồng.
Ủy an điều hành
cơ quan giám sát kế toán, kiểm toán
Ủy an Kỷ luật
Ủy an Ban hành chuẩn mực
Ủy an Giám sát kế toán, kiểm toán
Dịch vụ kiểm toán
Có thể bạn quan tâm!
- Nhận Xét Về Quản Lý Nhà Nước Đối Với Kiểm Toán Độc Lập Ở Việt Nam
- Định Hướng Phát Triển Và Quan Điểm Hoàn Thiện Quản Lý Nhà Nước Đối Với Kiểm Toán Độc Lập Ở Việt Nam Đến Năm 2025 Và Tầm Nhìn Đến Năm 2030
- Xây Dựng, Ban Hành Chính Sách Phát Triển, Mở Rộng Thị Trường Và Nâng Cao Chất Lượng Dịch Vụ Kiểm Toán
- Nâng Cao Nhận Thức Xã Hội Về Kiểm Toán Độc Lập
- Alvin A. Arens & James K.loebbecke (2000), Auditing-An Integrated Approach 7Th Edition, Prentice-Hall International, Inc.
- Xin Ông/bà Cho Biết Những Đánh Giá, Nhận Xét Của Mình Về Kiểm Toán Độc Lập Ở Việt Nam Và Đặc Biệt Trong Những Năm Gần Đây?
Xem toàn bộ 218 trang tài liệu này.
Dịch vụ kế toán
Sơ đồ 4.1: Mô hình tổ chức Ủy an điều hành cơ quan giám sát KTKT
(Nguồn: Theo nghiên cứu của tác giả)
Thứ nhất, chức năng của các ủy an chuyên môn
Ủy ban Giám sát kế toán, kiểm toán
chịu trách nhiệm cấp chứng chỉ hành nghề kế toán, kiểm toán; cấp phép đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kế toán, kiểm toán; thực hiện giám sát tuân thủ BCTC; kiểm tra chất lượng dịch vụ kế toán, kiểm toán; chấp thuận danh sách các DNKiT được phép kiểm toán các đơn vị có lợi ích công chúng. Như vậy sẽ chuyển bộ phận giám sát chất lượng dịch vụ kiểm toán của các cơ quan QLNN có liên quan hiện nay về về Ủy ban giám sát kế toán, kiểm toán. Bao gồm: bộ phận giám sát chất lượng dịch vụ kiểm toán đối với các DNKiT, KTV hành nghề được chấp thuận kiểm toán cho đơn vị có lợi ích công chúng thuộc lĩnh vực chứng khoán thuộc UBCKNN; bộ phận giám sát chất lượng dịch vụ kiểm toán đối với các DNKiT, KTV hành nghề của Cục Quản lý và giám sát bảo hiểm; bộ phận giám sát chất lượng dịch vụ kiểm toán đối với các DNKiT, KTV hành nghề của Ngân hàng nhà nước. Điều này sẽ giúp cho quá trình chấp thuận được tiến hành thống nhất cả về tiêu chí chấp thuận, quản lý việc bổ nhiệm kiểm toán và giám sát tuân thủ. NHNN và UBCK sẽ không phải tiến hành các quy trình chấp thuận riêng lẻ cho danh sách các DNKiT và KTV được kiểm toán các công ty niêm yết và danh sách các DNKiT và KTV được kiểm toán các tổ chức tín dụng. Ủy ban giám sát kế toán, kiểm toán sẽ đánh giá dựa trên năng lực và nguồn lực của DNKiT để đưa vào danh sách chấp thuận, như vậy sẽ nhất quán và hợp lý hơn giúp thúc đẩy sự hợp tác giữa các cơ quan quản lý và tận
dụng có hiệu quả nguồn nhân lực và vật lực. Nhờ đó, mỗi cơ quan quản lý không cần phải xây dựng, duy trì các kỹ năng và chuyên môn chuyên ngành, giúp giảm thiểu chi phí cho các đơn vị có lợi ích công chúng thay vì phải tiếp các đoàn thanh tra khác nhau. Ủy ban giám sát kế toán, kiểm toán sẽ giám sát việc thực hiện các nhiệm vụ của Hội kế toán, kiểm toán Việt nam và Hội kiểm toán viên hành nghề Việt nam và xử lý các vi phạm nghiêm trọng.
Ủy ban giám sát kế toán, kiểm toán nên bao gồm các tiểu ban: tiểu ban kiểm tra báo cáo tài chính; tiểu ban cấp phép cho KTV và kế toán viên hành nghề; tiểu ban giám sát chất lượng dịch vụ kiểm toán, kế toán. Ủy ban nên có thành phần rộng rãi và có chính sách thu hút nhân sự có chất lượng cao để thực tốt và có hiệu quả nhiệm vụ giám sát kế toán, kiểm toán, đặc biệt là đội ngũ chuyên gia lâu năm có kinh nghiệm thực tế về hành nghề kế toán, kiểm toán.
Ủy ban Kỷ luật
Ủy ban kỷ luật thực hiện điều tra, kỷ luật và giải quyết những khiếu nại gửi đến Ủy ban điều hành cơ quan giám sát kế toán kiểm toán. Ủy ban kỷ luật phải nộp báo cáo lên Ủy ban điều hành cơ quan giám sát kế toán, kiểm toán để quyết định trường hợp đó có cần tiến hành điều tra, kỷ luật hoặc xem xét khiếu nại.
Ủy ban kỷ luật nên bao gồm kế toán viên và thành viên ngoài ngành với ít nhất một thành viên là kế toán viên và một thành viên có chuyên môn về pháp lý (thành viên ngoài ngành kế toán nên chiếm đa số). Thành viên Hội đồng Ủy ban điều hành cơ quan giám sát kế toán kiểm toán, không nên là thành viên của Ủy ban kỷ luật, điều này là quan trọng bởi tính độc lập và đảm bảo nguyên tắc bất kiêm nhiệm.
Ủy ban Ban hành chuẩn mực
Ủy ban Ban hành chuẩn mực thực hiện ban hành và công bố, soát xét, sửa đổi và chấp thuận các chuẩn mực kế toán, kiểm toán, chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp và tham gia ý kiến của các bên liên quan để đạt được sự đảm bảo hợp lý trong mục tiêu, yêu cầu, hướng dẫn áp dụng, các giải thích khác trong từng chuẩn mực. Ủy ban thực hiện nghiên cứu thường xuyên và tham gia ý kiến của Ủy ban quốc tế về kế toán, kiểm toán khi có sự thay đổi cho phù hợp với tình hình thực tiễn. Để nâng cao chất lượng dịch vụ kế toán, kiểm toán và hiệu quả công tác kiểm soát đạo đức nghề nghiệp, Ủy ban còn phải chịu trách nhiệm kiểm soát việc tuân thủ đạo đức của những người hành nghề kế toán và kiểm toán; ban hành những hướng dẫn, nghiên cứu và xuất bản các tài liệu tham khảo, các giải thích cho từng lĩnh vực cụ thể.
Cơ cấu của Ủy ban Ban hành chuẩn mực phải đảm bảo, những người chịu trách nhiệm xây dựng chuẩn mực sẽ không tham gia vào thực thi các chuẩn mực đó. Ủy ban Ban hành chuẩn mực nên có thành phần rộng rãi với các thành viên đến từ
cơ quan QLNN, những chuyên gia kỹ thuật về những lĩnh vực đặc thù, các kế toán viên hành nghề, KTV hành nghề, người sử dụng BCTC, hội nghề nghiệp về kế toán, kiểm toán và các giáo sư đến từ trường đại học. Sự có mặt của nhiều thành phần sẽ tăng cường tính được chấp nhận rộng rãi của các chuẩn mực kế toán, kiểm toán và đạo đức nghề nghiệp. Với sự có mặt của các ủy ban chuyên môn sẽ làm cho các quy chế quản lý, giám sát KTĐL mềm dẻo hơn và tăng cường tính được chấp nhận rộng rãi bên cạnh việc phải chấp hành theo luật định. Đồng thời, Ủy ban điều hành cơ quan giám sát kế toán, kiểm toán sẽ có trách nhiệm cao hơn trong giám sát việc tuân thủ chính sách, pháp luật và chất lượng dịch vụ kiểm toán và tham mưu cho Chính phủ, Quốc hội để phòng ngừa rủi ro, chống tham nhũng trong lĩnh vực KTĐL.
Thứ hai, mô hình tổ chức hoạt động
Để thích hợp với mô hình pháp lý của Việt Nam, việc thành lập Ủy ban điều hành cơ quan giám sát kế toán, kiểm toán nên được tiếp cận theo từng giai đoạn:
Giai đoạn đầu, Ủy ban điều hành cơ quan giám sát kế toán kiểm toán sẽ trực thuộc và chịu trách nhiệm giải trình với Bộ Tài chính. Trách nhiệm điều hành và ra quyết định sẽ do Hội đồng Ủy ban điều hành đảm nhận. Hội đồng Ủy ban điều hành cơ quan giám sát kế toán kiểm toán chủ yếu là viên chức cấp cao của Bộ Tài chính. Thực tế hiện nay, Cục Quản lý, giám sát kế toán, kiểm toán là cơ quan QLNN trực thuộc Bộ Tài chính, có chức năng giúp việc cho Bộ Tài chính trong quản lý, giám sát hoạt động kế toán, kiểm toán và thực hiện kiểm tra, giám sát việc tuân thủ các quy định về kế toán, kiểm toán. Tổ chức bộ máy của Cục Quản lý, giám sát kế toán, kiểm toán được phân công theo lĩnh vực chuyên môn bao gồm 4 phòng quản lý chuyên trách: Phòng Quản lý, giám sát kiểm toán; Phòng Quản lý, giám sát kế toán doanh nghiệp; Phòng Quản lý, giám sát kế toán ngân hàng và các tổ chức tài chính; Phòng Quản lý, giám sát kế toán nhà nước. Cơ cấu mới được đề xuất sẽ tách bạch chức năng quản lý và chức năng giám sát trong QLNN. Theo đó, sẽ chuyển bộ phận giám sát đối với kế toán, kiểm toán về Ủy ban điều hành cơ quan giám sát kế toán kiểm toán. Các bộ phận còn lại sẽ thuộc Cục Quản lý kế toán, kiểm toán trực thuộc Bộ Tài chính.
Giai đoạn hai, khi có sự thừa nhận của pháp luật, được Quốc hội công nhận tư cách pháp nhân và cho phép hoạt động độc lập. Ủy ban điều hành cơ quan giám sát kế toán kiểm toán sẽ là cơ quan ban hành luật chính thức và là cơ quan giám sát quyền lợi của công chúng độc lập, hoạt động ngoài khuôn khổ của Bộ Tài chính. Luật lệ và quy định về Ủy ban điều hành cơ quan giám sát kế toán kiểm toán nên được ban hành đảm bảo tính độc lập của Ủy ban đối với kế toán, kiểm toán.
Thứ a, kinh phí hoạt động
Kinh phí hoạt động của Ủy ban điều hành cơ quan giám sát kế toán, kiểm toán chủ yếu là kinh phí thuộc ngân sách Nhà nước. Bên cạnh đó, kinh phí hoạt động có thể huy động từ cộng đồng doanh nghiệp (đặc biệt là các công ty niêm yết), các doanh nghiệp dịch vụ kế toán và DNKiT, …song phải đảm bảo tính độc lập.
Thứ tư, công khai kết quả kiểm tra, giám sát
Ủy ban điều hành cơ quan giám sát kế toán, kiểm toán có thể không công khai tất cả các kết quả giám sát tuân thủ và giám sát chất lượng chuyên môn, song phải phải công bố báo cáo tóm tắt hàng năm về công tác kiểm tra giám sát kế toán, kiểm toán. Đồng thời kết hợp với Cục Quản lý giám sát kế toán, kiểm toán, xây dựng ngân hàng dữ liệu để quản lý và giám sát việc hành nghề kế toán, kiểm toán. Ủy ban điều hành phải kết nối thông tin giữa các cơ quan quản lý, giám sát kế toán, kiểm toán và thị trường chứng khoán để đảm bảo việc công bố thông tin minh bạch, kịp thời cho thị trường về các doanh nghiệp dịch vụ kế toán, DNKiT, kế toán viên và KTV hành nghề.
4.2.2.3 Thực hiện cơ chế tự chủ, luân chuyển nhân sự nâng cao năng lực quản lý
Căn cứ đề xuất:
Kết quả xử lý dữ liệu cho thấy, năng lực nhân sự QLNN đối với KTĐL (HQ3), được đánh giá là yếu tố rất quan trọng trong QLNN với điểm trung bình là 4.5210, nhưng đánh giá thực tế, chất lượng nhân sự QLNN thấp với điểm trung bình là 2.3903. Độ khác biệt giữa mức độ quan trọng và mức độ thực hiện là (4.5210 – 2.3903 = 2.131), cho thấy, Nhà nước cần phải tập trung cải thiện chất lượng nhân sự QLNN nhằm đảm bảo thực hiện tốt hoạt động quản lý và giám sát KTĐL.
Dựa vào số liệu Bảng điểm trung bình, độ lệch chuẩn các yếu tố ảnh hưởng đến QLNN đối với KTĐL, yếu tố năng lực đội ngũ cán bộ QLNN được đánh giá là yếu tố then chốt tạo nên sự thành công trong QLNN đối với KTĐL với mức điểm trung bình là 3,1720 và độ chệch chuẩn là 0,92111.
Thực trạng quản lý cũng cho thấy, nhân sự QLNN chưa có nhiều kinh nghiệm thực tiễn về KTĐL nên dẫn đến khó khăn khi áp dụng các phương thức quản lý, giám sát hiện đại. Nhà nước chưa có cơ chế thu hút nhân sự có năng lực, có kinh nghiệm gắn bó lâu dài với cơ quan QLNN. Tổ chức xắp xếp nhân sự trong bộ máy QLNN chưa khoa học hợp lý. Với việc phân công nhân sự chỉ chuyên trách từng mảng không có sự thuyên chuyển giữa các bộ phận nên khả năng đáp ứng công việc, sự phối hợp giữa các bộ phận không hiệu quả. Đặc biệt đối với các cán bộ chủ chốt, vì không luân chuyển nên khi xắp xếp vào các vị trí quản lý không phát huy hết hiệu quả trong hoạt động.
Nội dung giải pháp:
Trong giai đoạn mới, thực hiện cơ chế tự chủ, các cơ quan QLNN sẽ có điều kiện chủ động và đủ sức mạnh về tài chính để tổ chức công việc, thu hút được nhân sự có trình độ, có kinh nghiệm và có chứng chỉ KTV. Bên cạnh đó, phải thực hiện thường xuyên luân chuyển nhân sự giữa các bộ phận để tăng cường chuyên môn, khả năng phối hợp công việc và phát triển năng lực quản lý điều hành của cán bộ chủ chốt. Hoạt động luân chuyển nhân sự được thực hiện trên cơ sở coi trọng công tác bố trí, sắp xếp phù hợp với năng lực, chính là định hướng, gợi mở, phát huy trí tuệ của cán bộ. Thông qua công tác luân chuyển, các nhân sự thuộc diện luân chuyển có cách nhìn mới, sáng tạo, có cơ hội kiểm nghiệm lý luận và thực tiễn trong việc thực hiện nhiệm vụ tại bộ phận luân chuyển. Đồng thời, cơ quan tiếp nhận cán bộ luân chuyển có thêm lực lượng nhân sự có trình độ chuyên môn, có đạo đức, ham học hỏi, nhiệt tình công việc.
4.2.2.4 Tăng cường tính chủ động và tạo cơ chế phối hợp, phân công, phân cấp rõ ràng trong quản lý giám sát kiểm toán độc lập
Căn cứ đề xuất:
Kết quả xử lý dữ liệu từ phương pháp tích hợp Kano-IPA, yếu tố HQ4 (Sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các cơ quan QLNN), được đánh giá có mức độ quan trọng trong QLNN đối với KTĐL gần như tuyệt đối với mức điểm trung bình 4,9502. Để thực tiễn quản lý hiệu quả, các cơ quan quản lý phải tăng cường hơn nữa tính chủ động và Nhà nước phải tạo cơ chế phối hợp, phân công, phân cấp rõ ràng để quản lý và giám sát hoạt động KTĐL.
Kết quả đánh giá những nguyên nhân của các tồn tại, hạn chế trong QLNN đối với KTĐL, có nguyên nhân từ phía Cơ quan QLNN, xác định, “tính chủ động của cơ quan QLNN” chưa cao. Trong định hướng phát triển KTĐL ở Việt Nam đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2030, chỉ rõ, phải tăng cường tính chủ động và tạo cơ chế phối hợp, phân công, phân cấp rõ ràng trong quản lý giám sát KTĐL.
Bài học rút ra từ kinh nghiệm của các quốc gia cho thấy cần phải xây dựng cơ chế phối hợp trong quản lý giám sát KTĐL.
Nội dung giải pháp:
Tăng cường tính chủ động thông qua vai trò chủ thể quản lý, Nhà nước chủ động trong phân quyền, giao quyền cho các cơ quan QLNN và tổ chức hợp lý cơ cấu, xác định rõ chức năng, quyền hạn, trách nhiệm của các tổ chức và dựa vào yêu cầu cụ thể của cơ cấu để lựa chọn, bố trí, xắp xếp nhân sự trong cơ quan QLNN.
Nhà nước chủ động tạo cơ chế phối hợp, phân công, phân cấp tạo nên sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các cơ quan QLNN, thúc đẩy sự hợp tác giữa các cơ quan
QLNN. Cơ chế phối hợp đồng bộ, hiệu quả sẽ đem lại mức độ tác động quản lý cao, tiết kiệm chi phí chi trả của ngân sách đảm bảo nguyên tắc quản lý chi tiêu theo kết quả đầu ra. Việc quản lý, giám sát hoạt động hành nghề kiểm toán phải tập trung vào cả hai mảng công việc lớn là: (1) xây dựng cơ chế giám sát và áp dụng các tiêu chí, chuẩn mực giám sát; đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất, minh bạch và phù hợp với các thông lệ quốc tế; (2) tổ chức triển khai thực hiện việc quản lý, giám sát trên các phương diện: Đăng ký, cấp, quản lý “ Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kiểm toán” cho cácDNKiT; Đăng ký, cấp “Giấy chứng nhận hành nghề kiểm toán” hàng năm cho KTV hành nghề; Thi, cấp chứng chỉ kiểm toán viên, chứng chỉ kế toán viên công chứng; Cấp phép thành lập, quản lý tình hình hoạt động, tình hình biến động của các DNKiT; Kiểm tra, giám sát các mặt hoạt động và kiểm tra chất lượng dịch vụ kiểm toán; Phối hợp hoạt động và kiểm tra tình hình hoạt động của các tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán; Đánh giá, đề xuất phương hướng, giải pháp phát triển thị trường dịch vụ kiểm toán.
Cơ quan QLNN phải phối hợp với các tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán thực hiện tập huấn, hướng dẫn nghiệp vụ, phổ biến chính sách và pháp luật, giải trình những tác động từ các chính sách đến các DNKiT, KTV, đơn vị được kiểm toán. Tổ chức truyền thông có định hướng, minh bạch, công khai, giúp cho các chính sách và pháp luật đi vào cuộc sống của doanh nghiệp và bảo đảm quyền tiếp cận thông tin và cập nhật rõ ràng, dễ truy cập với các đối tượng thực thi chính sách.
4.2.3 Nhóm giải pháp về kiểm tra, giám sát kiểm toán độc lập
4.2.3.1 Hoàn thiện cơ chế quản lý về thu và sử dụng phí kiểm tra, giám sát
Căn cứ đề xuất:
Từ phân tích thực trạng cho thấy, chi phí kiểm tra, giám sát KTĐL hiện nay do ngân sách nhà nước đảm bảo nên không đảm bảo nguồn lực để giám sát hiệu quả. Học tập kinh nghiệm của các quốc gia, để tăng cường hiệu quả hoạt động kiểm tra, giám sát kinh phí nên được tài trợ từ nhiều nguồn song phải đảm bảo tính độc lập.
Nội dung giải pháp:
Bộ Tài chính phải hoàn thiện các cơ chế và các quy định về quản lý thu và sử dụng phí kiểm tra, giám sát để đảm bảo nguồn lực hoạt động giám sát hiệu quả. Phí kiểm tra, giám sát nên được thu từ nhiều nguồn khác nhau: Kinh phí thuộc ngân sách Nhà nước; huy động từ các nhà phát hành BCTC (đặc biệt là các công ty niêm yết); phí hàng năm của các DNKiT và doanh nghiệp dịch vụ kế toán.
Để thực hiện cơ chế này, cơ quan QLNN phải hoàn thiện các quy định về quản lý chi phí kiểm tra, giám sát đã được quy định trong luật phí, lệ phí, đảm bảo nguồn lực cho công tác quản lý, giám sát hiệu quả.
Việc thực hiện các thủ tục và phạm vi kiểm soát chất lượng dịch vụ kiểm toán trong thực tế phụ thuộc vào số lượng và đặc điểm khách hàng của DNKiT là các đơn vị có lợi ích công chúng hay đơn vị không phải có lợi ích công chúng. Các DNKiT có số lượng khách hàng càng lớn thì cần phải kiểm tra nhiều hơn nên tiêu hao nhiều sức lực và thời gian hơn (bỏ ra nhiều chi phí hơn) so với các DNKiT có số lượng khách hàng ít. Tương tự như vậy, đối với DNKiT được chấp thuận kiểm toán đơn vị có lợi ích công chúng cần phải đóng phí kiểm soát chất lượng dịch vụ kiểm toán cao hơn so với DNKiT thông thường khác do các cuộc kiểm toán phức tạp, khối lượng các thủ tục kiểm toán phải thực hiện rất lớn và tính chất, tầm ảnh hưởng quan trọng của các DNKiT này đối với công chúng và nhà đầu tư. Cần phải có cơ chế phù hợp về kinh phí để huy động được người có trình độ, kinh nghiệm tham gia vào kiểm soát chất lượng dịch vụ kiểm toán.
4.2.3.2 Tăng cường nội dung kiểm tra, giám sát chất lượng kiểm toán
Căn cứ đề xuất:
Dựa trên định hướng hoàn thiện QLNN đối với KTĐL là gắn hoạt động giám sát tuân thủ với giám sát chất lượng chuyên môn để đảm bảo chất lượng kiểm toán, tăng niềm tin của các đối tượng trong nền kinh tế vào KTĐL. Từ phân tích thực trạng cũng cho thấy, hoạt động kiểm tra, xử lý hành vi vi phạm trong KTĐL chưa đạt hiệu quả cao nên chưa có được hệ thống cảnh báo sớm cho DNKiT, KTV và cơ quan QLNN. Bài học kinh nghiệm rút ra từ các quốc gia, cho thấy, kiểm tra chéo là hình thức kiểm soát hiệu quả luôn được các quốc gia sử dụng do phù hợp với đặc thù của KTĐL.
Nội dung giải pháp:
Bên cạnh việc kiểm tra tính tuân thủ các quy định của pháp luật cơ quan QLNN phải phối hợp với VACPA tăng cường kiểm tra, giám sát chất lượng kiểm toán trên các nội dung: tăng tần suất kiểm tra; tăng số lượng DNKiT và hồ sơ kiểm toán được kiểm tra; lựa chọn các hợp đồng kiểm toán có giá phí thấp để đánh giá chất lượng kiểm toán; tập trung kiểm tra việc xác định giá phí các hợp đồng kiểm toán đã thực hiện có phù hợp với quy định và chính sách giá phí mà DNKiT đã xây dựng; kiểm soát sự tuân thủ quy trình kiểm toán của các DNKiT; đánh giá việc tuân thủ các thủ tục KSCL của DNKiT.
Kiểm tra trực tiếp đối với các DNKiT thực hiện kiểm toán cho các công ty đại chúng nếu phát hành báo cáo kiểm toán cho hơn 100 khách hàng và ít nhất ba năm một lần đối với các DNKiT phát hành ít hơn 100 báo cáo kiểm toán. Nên thực hiện kiểm tra chéo các DNKiT thực hiện kiểm toán cho các công ty đại chúng và chon mẫu kiểm tra dựa trên đánh giá các rủi ro của từng DNKiT và đánh giá các sai sót của BCTC đã được kiểm toán, đặc biệt các khoản mục rủi ro cao và ảnh hưởng xấu đến thị trường vốn.
4.2.3.3 Hoàn thiện quy trình kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp kiểm toán thông qua Bộ chỉ số chất lượng kiểm toán (AQIs)
Căn cứ đề xuất:
Từ phân tích thực trạng cho thấy, kiểm soát từ bên ngoài do cơ quan QLNN thực hiện chỉ là một trong những phương tiện để nâng cao chất lượng kiểm toán. Muốn chất lượng kiểm toán thực sự nâng cao phải hoàn thiện và kiểm soát chặt quy trình kiểm soát nội bộ của các DNKiT. Căn cứ vào định hướng phát triển KTĐL và quan điểm hoàn thiện, phải xây dựng hệ thống KSCL nội bộ. Đây là những vấn đề quan trọng nhằm đảm bảo việc tuân thủ đầy đủ chuẩn mực kiểm toán, đặc biệt là khi kiểm toán ở các đơn vị có lợi ích công chúng có độ phức tạp cao. Các tiêu chí xác định DNKiT đủ tiêu chuẩn thực hiện kiểm toán các đơn vị có lợi ích công chúng hiện tại đang tập trung vào định lượng hơn là chất lượng quy trình kiểm toán. Các DNKiT phải có quy trình kiểm toán và kiểm soát tốt nhằm giúp KTV đưa ra ý kiến trung thực, hợp lý và đảm bảo chất lượng kiểm toán. Bài học kinh nghiệm rút ra từ các quốc gia, cho thấy xây dựng Bộ chỉ số chất lượng kiểm toán là hết sức cần thiết làm cơ sở cho việc đánh giá chất lượng kiểm toán của các DNKiT.
Nội dung giải pháp:
Ủy ban giám sát kế toán, kiểm toán cần tập trung nghiên cứu, xây dựng “Bộ chỉ số chất lượng kiểm toán” làm cơ sở cho việc thực hiện đánh giá công khai, minh bạch quy trình kiểm soát nội bộ của DNKiT và nâng cao chất lượng dịch vụ kiểm toán. Bộ chỉ số chất lượng kiểm toán được ban hành sẽ giúp cơ quan QLNN đánh giá được xu hướng phát triển của KTĐL, từ đó đưa ra các chính sách, công cụ hỗ trợ chất lượng kiểm toán kịp thời cũng như lập các kế hoạch kiểm tra, giám sát phù hợp. Bên cạnh đó, Bộ chỉ số chất lượng kiểm toán sẽ hỗ trợ ban kiểm soát của khách hàng đánh giá rủi ro chất lượng dịch vụ kiểm toán, bổ nhiệm, duy trì hoặc thay thế KTV và giám sát KTV; hỗ trợ DNKiT chứng minh khả năng và thể hiện cam kết trong việc cung cấp dịch vụ kiểm toán có chất lượng cao, từ đó thúc đẩy việc cạnh tranh lành mạnh giữa các DNKiT trên cơ sở chất lượng dịch vụ cung cấp. Ngoài ra, khi Bộ chỉ số có tính tương đồng, thống nhất giữa các quốc gia sẽ là cách tốt nhất trở thành DNKiT toàn cầu nếu đáp ứng được chỉ số chất lượng.
Bộ chỉ số chất lượng kiểm toán phải được xây dựng phù hợp với thông lệ quốc tế và điều kiện của Việt Nam, trên cơ sở tham khảo các hướng dẫn của IFAC và các nước phát triển. Trên cơ sở các chỉ số phổ biến trong Bộ chỉ số của 9 tổ chức đã ban hành hoặc chuẩn bị ban hành trên thế giới (Ủy ban giám sát kiểm toán các công ty đại chúng Hoa Kỳ (PCAOB); Trung tâm chất lượng kiểm toán Hoa Kỳ (US CAQ); Hội đồng Báo cáo tài chính của Vương quốc Anh (FRC); Cơ quan quản lý kế toán