- Xét về phương diện phân cấp quản lý nhà nước, cân đối NSNN là cân đối về phân bổ và chuyển giao nguồn thu giữa các cấp ngân sách, giữa trung ương và địa phương và giữa các địa phương với nhau để thực hiện chức năng và nhiệm vụ được giao.
Cân đối NSNN không chỉ đơn thuần là sự cân bằng về số lượng biểu hiện qua các con số giữa tổng thu và tổng chi, mà nó còn biểu hiện qua các khía cạnh khác nhau. Tựu trung lại có thể hiểu: Cân đối ngân sách nhà nước là một bộ phận quan trọng của chính sách tài khóa, phản ánh sự điều chỉnh mối quan hệ tương tác giữa thu và chi ngân sách nhà nước nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội mà nhà nước đã đề ra trong từng lĩnh vực và địa bàn cụ thể.
Cân đối NSNN phản ánh mối quan hệ tương tác giữa thu và chi NSNN trong năm ngân sách nhằm đạt được các mục tiêu đã đề ra. Cân đối ngân sách nhà nước không phải là để thu chi cân đối hoặc chỉ là cân đối đơn thuần về mặt lượng, mà cân đối NSNN nhằm thực hiện các mục tiêu chiến lược kinh tế
- xã hội của Nhà nước đồng thời các chỉ tiêu kinh tế - xã hội này cũng quyết định sự hình thành về thu, chi NSNN. Tuy nhiên việc tính toán thu, chi không phản ánh một cách thụ động các chỉ tiêu kinh tế - xã hội, mà cân đối NSNN có tác động làm thay đổi hoặc điều chỉnh một cách hợp lý các chỉ tiêu kinh tế
- xã hội, bằng khả năng quản lý hoặc phân bổ nguồn lực có hiệu quả.
Cân đối NSNN là cân đối giữa tổng thu và tổng chi, giữa các khoản thu và các khoản chi, cân đối về phân bổ và chuyển giao nguồn lực giữa các cấp trong hệ thống NSNN, đồng thời kiểm soát được tình trạng NSNN đặc biệt là tình trạng bội chi NSNN. Cân bằng thu - chi NSNN chỉ là tương đối chứ không thể đạt mức tuyệt đối được vì hoạt động kinh tế luôn ở trạng thái biến động, Nhà phải điều chỉnh hoạt động thu, chi cho phù hợp. Bên cạnh đó, cần phân bổ nguồn thu cho hợp lý để đảm bảo sự ổn định về kinh tế - xã hội giữa
các địa phương. Mặt khác, nếu ngân sách không cân bằng mà rơi vào tình trạng bội chi thì cần đưa ra những giải quyết kịp thời để ổn định lại NSNN.
Cân đối NSNN mang tính định lượng và tính tiên liệu. Trong quá trình cân đối NSNN, người quản lý phải xác định các con số thu, chi NSNN so với tình hình thu nhập trong nước, chi tiết hóa từng khoản thu, chi nhằm đưa ra cơ chế sử dụng và quản lý nguồn thu phù hợp với hoạt động chi, từ đó để làm cơ sở phân bổ và chuyển giao nguồn lực giữa các cấp ngân sách. Cân đối NSNN phải dự đoán được các khoản thu, chi ngân sách một cách tổng thể để đảm bảo thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội.
Cân đối NSNN là một công cụ quan trọng để nhà nước can thiệp vào hoạt động kinh tế - xã hội của đất nước, với vai trò quyết định đó thì cân đối NSNN trong nền kinh tế thị trường có các vai trò:
- Cân đối NSNN góp phần ổn định kinh tế vĩ mô. Nhà nước thực hiện cân đối NSNN thông qua chính sách thuế, chính sách chi tiêu hàng năm và quyết định mức bội chi cụ thể nên có nhiều tác động đến hoạt động kinh tế cũng như cán cân thương mại quốc tế. Từ đó góp phần ổn định việc thực các mục tiêu của chính sách kinh tế vĩ mô như: Tăng trưởng mức thu nhập bình quân trong nền kinh tế, giảm tỷ lệ thất nghiệp, lạm phát được duy trì ở mức ổn định và có thể dự toán được,…
Có thể bạn quan tâm!
- Những Khoảng Trống Trong Quản Lý Ngân Sách Nhà Nước Cần Tiếp Tục Nghiên Cứu
- Khái Niệm Quản Lý Ngân Sách Nhà Nước Cấp Tỉnh
- Sự Cần Thiết Quản Lý Ngân Sách Nhà Nước Cấp Tỉnh
- Kinh Nghiệm Quản Lý Ngân Sách Nhà Nước Của Một Số Địa Phương Cấp Tỉnh Và Giá Trị Tham Khảo Đối Với Luang Prabang, Nước Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân
- Giá Trị Tham Khảo Đối Với Tỉnh Của Luang Prabang, Nước Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Lào
- Cơ Cấu Kinh Tế Các Nhóm Ngành Chủ Yếu Giai Đoạn 2015-2019
Xem toàn bộ 177 trang tài liệu này.
- Cân đối NSNN góp phần phân bổ, sử dụng nguồn lực tài chính có hiệu quả, để đảm bảo được vai trò này ngay từ khi lập dự toán nhà nước đã lựa chọn trình tự ưu tiên hợp lý trong phân bổ NSNN và sự gắn kết chặt chẽ giữa chiến lược phát triển kinh tế - xã hội với công tác lập kế hoạch ngân sách. Trong phân cấp quản lý ngân sách, nếu cân đối NSNN phân định nguồn thu một cách hợp lý giữa trung ương với địa phương và giữa các địa phương với nhau thì sẽ đảm bảo thực hiện được các mục tiêu kinh tế - xã hội đã đề ra.
- Cân đối NSNN góp phần đảm bảo công bằng xã hội, giảm thiểu sự bất bình đẳng giữa các địa phương. Với mỗi một vùng lại có một điều kiện
kinh tế - xã hội khác nhau, có những vùng điều kiện kinh tế - xã hội rất khó khăn làm ảnh hưởng đến thu nhập và chất lượng cuộc sống của người dân, có những vùng điều kiện kinh tế - xã hội thuận lợi, phát triển làm cho thu nhập và cuộc sống của người dân được nâng lên. Vì vậy cân đối NSNN sẽ đảm được sự công bằng, giảm thiểu sự bất bình đẳng giữa người dân và các vùng miền. Nhà nước có thể huy động nguồn lực từ những người có thu nhập cao, những vùng có kinh tế phát triển để hỗ trợ, giúp đỡ những người nghèo có thu nhập thấp và những vùng kinh tế kém phát triển. Bên cạnh đó, cân đối NSNN góp phần phát huy lợi thế của từng địa phương, tạo nên thế mạnh kinh tế cho địa phương đó dựa trên tiềm năng có sẵn của địa phương.
Cân đối NSNN là vấn đề rất quan trọng và cần thiết để Nhà nước thực hiện tốt chức năng và nhiệm vụ của mình. Nhưng để NSNN được giữ ở mức cân đối và ổn định thì không đơn giản, vì nó còn phụ thuộc nhiều yếu tố như: Tình hình kinh tế, chính trị và xã hội của mỗi quốc gia, vấn đề lạm phát tăng nhanh, khủng hoảng kinh tế, thiên tai,…. Sự không ổn định trong hoạt động thu, chi NSNN đã dẫn đến tình trạng mất cân đối NSNN.
Cân đối NSNN cần phải dựa trên hệ thống các nguyên tắc lập ngân sách và quản lý chi tiêu công hiệu quả như:
+ Tính tổng thể và tính kỷ luật tài chính: Để kiểm soát được các nguồn tài chính có hiệu quả, yêu cầu trong cân đối NSNN phải đánh giá đúng nguồn lực tài chính đó và lựa chọn những công cụ thích hợp nhất để phân bổ nguồn lực nhằm đạt được mục tiêu ngân sách đã đề ra. Điều này có nghĩa là, khi cân đối NSNN thì những quyết định về chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên cần phải được gắn kết với nhau. Trong chi tiêu NSNN cần tập trung chi vào những khoản cần thiết, chi tiêu tiết kiệm, tránh lãng phí để thực hiện tốt các chiến lược mà chính phủ đề ra.
+ Tính linh hoạt và tính tiên liệu: Trong cân đối NSNN, tính linh hoạt và tính tiên liệu là cần thiết, vì nó giúp nhà quản lý đưa ra cách xử lý và điều
phối nguồn lực tài chính một cách hợp lý, tạo điều kiện thuận lợi để nhà nước thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội đã đề ra. Tính linh hoạt yêu cầu phải trao quyền cho người quản lý trong việc ra quyết định phân bổ nguồn lực tài chính. Tính tiên liệu đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện chính sách và chương trình có hiệu quả. Nguyên tắc này đòi hỏi cân đối NSNN phải chú ý đến sự cân đối trong ngắn hạn và dài hạn, và phải vận dụng cách tiếp cận trung hạn đối với việc điều chỉnh mất cân đối NSNN.
+ Tính trung thực: Khi cân đối ngân sách nên dựa vào những dự toán đã được lập từ thực tế tình hình kinh tế - xã hội của đất nước, mà không có sự thiên vị về vấn đề thu hoặc chi NSNN. Những dự toán quá lạc quan sẽ dễ đưa đến sự vi phạm tính kỷ luật tài chính và dẫn đến việc không thực hiện được những chiến lươc, chính sách Nhà nước đã đề ra.
+ Thông tin, minh bạch và trách nhiệm: Đây là vấn đề rất cần thiết trong cân đối NSNN. Thông tin tốt sẽ làm tăng thêm tính trung thực và giúp người quản lý sẽ đưa ra những quyết định hợp lý. Thông tin chính xác và kịp thời về chi phí, đầu ra và kết quả đạt được sẽ giúp cho quá trình thực hiện cân đối NSNN đạt hiệu quả. Tính minh bạch và trách nhiệm trước hết yêu cầu những người ra quyết định phải có tất cả những dữ liệu và thông tin thích hợp, phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình.
Quản lý cân đối thu chi NSNN cần đảm bảo nguyên tắc cân đối NSNN:
- Các khoản thu từ thuế, phí, lệ phí và các khoản thu khác theo quy định của pháp luật được tổng hợp đầy đủ vào cân đối NSNN, theo nguyên tắc không gắn với nhiệm vụ chi cụ thể. Trường hợp có khoản thu cần gắn với nhiệm vụ chi cụ thể theo quy định của pháp luật thì được bố trí tương ứng từ các khoản thu này trong dự toán chi ngân sách để thực hiện. Việc ban hành chính sách thu ngân sách phải bảo đảm nguyên tắc cân đối ngân sách trong trung hạn, dài hạn và thực hiện các cam kết về hội nhập quốc tế.
- NSNN được cân đối theo nguyên tắc tổng số thu từ thuế, phí, lệ phí phải lớn hơn tổng số chi thường xuyên và góp phần tích lũy ngày càng cao để chi đầu tư phát triển; trường hợp còn bội chi thì số bội chi phải nhỏ hơn số chi đầu tư phát triển, tiến tới cân bằng thu, chi ngân sách; trường hợp đặc biệt Chính phủ trình Quốc hội xem xét, quyết định. Trường hợp bội thu ngân sách thì được sử dụng để trả nợ gốc và lãi các khoản vay của NSNN.
- Vay bù đắp bội chi NSNN chỉ được sử dụng cho đầu tư phát triển, không sử dụng cho chi thường xuyên.
- Bội chi NSTW được bù đắp từ các nguồn sau: Vay trong nước từ phát hành trái phiếu chính phủ, công trái xây dựng Tổ quốc và các khoản vay trong nước khác theo quy định của pháp luật; Vay ngoài nước từ các khoản vay của Chính phủ các nước, các tổ chức quốc tế và phát hành trái phiếu chính phủ ra thị trường quốc tế, không bao gồm các khoản vay về cho vay lại.
- Bội chi NSĐP: Chi NSĐP cấp tỉnh được bội chi; bội chi NSĐP chỉ được sử dụng để đầu tư các dự án thuộc kế hoạch đầu tư công trung hạn đã được HĐND cấp tỉnh quyết định; Bội chi NSĐP được bù đắp bằng các nguồn vay trong nước từ phát hành trái phiếu chính quyền địa phương, vay lại từ nguồn Chính phủ vay về cho vay lại và các khoản vay trong nước khác theo quy định của pháp luật; Bội chi NSĐP được tổng hợp vào bội chi NSNN và do Quốc hội quyết định. Chính phủ quy định cụ thể điều kiện được phép bội chi NSĐP để bảo đảm phù hợp với khả năng trả nợ của địa phương và tổng mức bội chi chung của NSNN.
2.2.3.4. Giám sát, thanh tra, kiểm toán và xử lý vi phạm trong quản lý ngân sách nhà nước cấp tỉnh
Giám sát NSNN cấp tỉnh là hoạt động của cơ quan quyền lực nhà nước cấp tỉnh (HĐND) thực hiện giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật về NSNN ở địa phương đối với các cơ quan sử dụng NSNN ở địa phương.
Thanh tra NSNN là một phần trong hoạt động thanh tra, thuộc lĩnh vực thanh tra nhà nước; là việc xem xét, đánh giá, xử lý của cơ quan quản lý nhà nước đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật của nhà nước về công tác thu - chi NSNN, nhằm đảm bảo công tác thu, chi NSNN của các cơ quan, đơn vị có thẩm quyền thực hiện theo đúng quy định của pháp luật, đồng thời có kiến nghị chấn chỉnh hoặc xử lý những sai phạm nếu có.
Kiểm toán NSNN là một hoạt động kiểm tra đặc biệt nhằm xác minh tính trung thực và hợp lý của các tài liệu, số liệu kế toán, báo cáo tài chính của các cơ quan sử dụng NSNN nhằm đảm bảo việc tuân thủ các chuẩn mực và các quy định hiện hành.
Kiểm tra, giám sát việc quản lý và sử dụng NSNN là chức năng vốn có của quản lý NSNN và được tiến hành cùng với quá trình quản lý và sử dụng NSNN. Đối với một hệ thống có quy mô lớn hoặc có tính chất hoạt động phức tạp thì kiểm tra, giám sát càng có ý nghĩa lớn, thậm chí được coi là một trong những chức năng quan trọng nhất của quản lý. Điều đó được thể hiện thông qua vai trò của công tác kiểm tra nội bộ trong các hệ thống quản lý NSNN và các tổ chức kiểm tra độc lập ở bên ngoài. Kiểm tra, giám sát chu trình ngân sách là những nội dung quan trọng của quản lý chu trình ngân sách. Việc kiểm tra, giám sát chu trình NSNN có rất nhiều chủ thể cùng tham gia, để thực hiện nhiều nhiệm vụ khác nhau trong suốt chu trình ngân sách.
+ Cơ quan quyền lực nhà nước cấp tỉnh là HĐND chịu trách nhiệm quyết định dự toán, giám sát quá trình chấp hành ngân sách và phê chuẩn quyết toán NSNN cấp tỉnh.
+ UBND các cấp chịu trách nhiệm trực tiếp quản lý, điều hành hoạt động của NSNN trên cơ sở dự toán NSNN đã được cơ quan quyền lực nhà nước thông qua và các văn bản pháp quy khác về quản lý NSNN hiện đang có hiệu lực thi hành;
+ Các cơ quan chức năng (tài chính, thuế, kho bạc, hải quan...) được giao nhiệm vụ trực tiếp quản lý từng mặt hoạt động của NSNN có trách nhiệm thực thi tốt các việc đã được phân công trong thực hiện chu trình NSNN;
+ Các đơn vị, các ngành trên địa bàn địa phương cấp tỉnh chịu trách nhiệm trước UBND các cấp về nghĩa vụ thu nộp, quản lý, sử dụng NSNN và các yêu cầu cụ thể trong quá trình quản lý NSNN;
+ Các cơ quan thanh tra, kiểm tra thực hiện kiểm tra tính tuân thủ trong việc chấp hành các chính sách, chế độ quản lý NSNN. Cơ quan kiểm toán nhà nước thực hiện nhiệm vụ kiểm toán NSNN các cấp và có trách nhiệm báo cáo với quốc hội, chính phủ.
Việc giám sát, kiểm tra, thanh tra, kiểm toán NSNN đòi hỏi phải quản lý theo quy trình NSNN. Mỗi khâu của quy trình NSNN có ý nghĩa, tác dụng riêng đối với quản lý NSNN, đồng thời các khâu này lại có tác động qua lại lẫn nhau, bổ trợ nhau trong quản lý nhằm đảm bảo quản lý NSNN một cách hữu hiệu và có hiệu quả cao. Kiểm tra, giám sát NSNN là một hoạt động quan trọng, bảo đảm cho NSNN được quản lý chặt chẽ, tuân theo các quy định của pháp luật, đúng mục đích và có hiệu quả. Mặt khác, kiểm tra, giám sát NSNN sẽ góp phần kiểm nghiệm tính phù hợp của pháp luật về NSNN, phát hiện những bất cập, lạc hậu hoặc kẽ hở trong các văn bản quy phạm pháp luật nhằm bổ sung, sửa đổi kịp thời và sát với thực tiễn, đáp ứng ngày càng cao yêu cầu quản lý NSNN.
2.2.4. Những yếu tố ảnh hưởng đến quản lý ngân sách nhà nước cấp tỉnh
Quản lý NSNN thực chất là hoạt động QLNN trên lĩnh vực tài chính ngân sách. Quá trình quản lý NSNN thường bị chi phối bởi các nhân tố sau khách quan, chủ quan sau đây:
2.2.4.1. Các yếu tố khách quan
- Thể chế kinh tế
Thể chế là hệ thống luật pháp các văn bản quy phạm pháp luật liên quan tới NSNN. Một quốc gia có hệ thống văn bản pháp luật về ngân sách tốt thì công việc quản lý cũng dễ dàng, nếu hệ thống văn bản pháp lý lộn xộn, không rõ ràng sẽ làm cho người thực hiện các văn bản lúng túng trong giải quyết các vấn đề trong thực tế.
Trong lĩnh vực NSNN, thể chế quy định phạm vi, đối tượng thu - chi các khoản tài chính; quy định, chế định việc phân công, phân cấp nhiệm vụ chi, quản lý chi của các cấp chính quyền; quy định quy trình, nội dung lập, chấp hành và quyết toán ngân sách. Quy định chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của cơ quan nhà nước trong quá trình quản lý thu - chi ngân sách, sử dụng quỹ ngân sách. Thể chế tài chính quy định, chế định những nguyên tắc, chế độ, định mức chi tiêu. Do vậy, nói đến nhân tố ảnh hưởng đến quản lý thu
- chi ngân sách trước hết phải nói đến thể chế tài chính. Vì nó chính là những văn bản của Nhà nước có tính quy phạm pháp luật chi phối mọi quá trình hoạt động của các cơ quan nhà nước trong quá trình quản lý thu - chi ngân sách. Thực tế cho thấy nhân tố về thể chế tài chính có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả quản lý thu - chi ngân sách trên một lãnh thổ, địa bàn nhất định, do vậy đòi hỏi phải ban hành những thể tài chính đúng đắn phù hợp mới tạo điều kiện cho công tác nói trên đạt được hiệu quả.
Việc đổi mới ngân sách cấp tỉnh là một yêu cầu mang tính tất yếu, là điều kiện quan trọng để ngân sách tỉnh thực sự trở thành công cụ điều chỉnh vĩ mô của chính quyền nhà nước cấp tỉnh. Tuy nhiên, những nội dung đổi mới phải được thể chế hoá và nâng cao hiệu lực về mặt pháp lý, đó chính là điều kiện cơ bản để đảm bảo tính khả thi của đổi mới ngân sách tỉnh. Quá trình đổi mới quản lý ngân sách cấp tỉnh đã được Đảng và Nhà nước Lào hết sức chú trọng, thể hiện ở hàng loạt những văn bản pháp luật về quản lý ngân sách tỉnh đã được ban hành và ngày càng được đổi mới cho phù hợp với tình hình