Quan Điểm Tăng Cường Kiểm Toán Hoạt Động Nâng Cao Vai Trò Kiểm Toán Nhà Nước Trong Quản Lý Tài Chính, Tài Sản Công



Nguyên nhân chủ quan là sự phối hợp giữa công chúng với chủ thể thực hiện KTHĐ vẫn chưa có cầu nối, KTNN chưa quan tâm trang bị và đầu tư các kênh, cổng thông tin đối thoại, thẩm vấn, chưa đủ ảnh hưởng lan tỏa sức thuyết phục và tin cậy cho công chúng để khai thác thông tin, phản hồi dân chủ; tâm lý của các cấp, các ngành vẫn còn mang nặng hình thức chủ quan, ỷ lại sự giải tỏa trách nhiệm tạm thời mà trước đây chưa chú trọng vào Luật phòng chống tham nhũng để đề xuất giải pháp phối hợp trong công vụ dẫn đến các kiến nghị KTHĐ của KTNN đưa ra khó thực hiện triệt để; công chúng chưa hiểu hết vai trò KTHĐ, KTNN chưa thiết lập một bộ phận truyền thông sự hữu ích trong công chúng và đối với các chủ thể quản lý của nền kinh tế mang lại giá trị lợi ích đích thực từ KTHĐ.

Kết luận chương 3


Hiện nay, các KTV trong ngành vẫn quan tâm hơn hết kết quả kiểm toán về kiến nghị xử lý tài chính mà xem nhẹ thành quả KTHĐ đang tiềm ẩn một giá trị lợi ích đích thực sẽ mang lại cho cộng đồng. Do đó, chủ thể KTNN cần nhìn nhận sâu sắc vào thực tiễn và tăng cường phát huy vai trò KTHĐ để giải quyết những thực trạng ấy. Nghiên cứu các kết quả tổ chức KTHĐ trong và ngoài nước cho thấy bức tranh toàn cảnh về tiến trình kiểm soát QLNS, tài chính, tài sản công có ý nghĩa giúp cho các cấp QLNN và công chúng giám sát các hoạt động của nền kinh tế với những vấn đề luôn được quan tâm như: Môi trường, công nghệ thông tin, nợ công, đầu tư,... là những lĩnh vực có nhiều rủi ro, luôn gây bức xúc trong công chúng và dư luận, xã hội.

Qua hơn 25 năm hình thành và phát triển KTNN, bộ máy kiểm toán đã được củng cố toàn diện, cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại. Song những kết quả đạt được cũng bộc lộ nhiều hạn chế, nguyên nhân khách quan, chủ quan do năng lực, kinh nghiệm KTHĐ của các KTV vẫn chưa đáp ứng kịp thời dẫn đến số lượng các cuộc KTHĐ hàng năm thực hiện còn thấp so với mục tiêu của Quốc hội đề ra. Qua nghiên cứu, đánh giá thực trạng KTHĐ và vai trò của KTNN cho thấy, bài học kinh nghiệm rút ra đối với KTNN là phải thể hiện vai trò hoạt động được thiết chế độc lập, đẩy mạnh quyền lực gắn với hoạt động giám sát, kiểm soát độc lập nền tài chính công ở mỗi cấp Nhà nước giúp cho sự nghiệp phát triển KTHĐ, nâng cao vị trí pháp lý, vai trò, chức năng và nhiệm vụ của KTNN cũng chính là giúp cho Quốc hội, Chính phủ và Nhân dân thực hiện mục tiêu kiểm soát, giám sát minh bạch nền tài chính công hiện đại, thích ứng với Cách mạng công nghiệp 4.0 và sự nghiệp QLTC, tài sản công ở Việt Nam.



CHƯƠNG 4:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 208 trang tài liệu này.

ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN KIỂM TOÁN HOẠT ĐỘNG NÂNG CAO VAI TRÒ KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC TRONG

QUẢN LÝ TÀI CHÍNH, TÀI SẢN CÔNG Ở VIỆT NAM

Kiểm toán hoạt động nâng cao vai trò Kiểm toán Nhà nước trong quản lý tài chính, tài sản công ở Việt Nam - 18

4.1 Quan điểm tăng cường kiểm toán hoạt động nâng cao vai trò Kiểm toán Nhà nước trong quản lý tài chính, tài sản công

4.1.1 Quan điểm quản lý tài chính, tài sản công ảnh hưởng tới tổ chức thực hiện kiểm toán hoạt động của Kiểm toán Nhà nước

Quan điểm phải đổi mới trong kiểm soát QLNS, tài chính và tài sản công là yêu cầu thiết yếu của Nhà nước thông qua các hoạt động của các cơ quan công quyền như: KTNN, Thanh tra, Ủy ban kiểm tra,... Trong đó, vai trò của KTNN được thiết chế độc lập về quyền lực công trong kiểm tra, kiểm soát các hoạt động công vụ nhằm đảm bảo mục tiêu cho Quốc hội và Chính phủ trong kiểm soát quản lý nền tài chính quốc gia:

Thứ nhất, về phân cấp QLNN về tài chính, tài sản công: Tăng cường phân cấp quản lý cho các cấp chính quyền từ Trung ương đến địa phương trong việc quyết định dự toán ngân sách, chủ động vốn đối với những khoản chi tiêu cấp bách và gắn với nghĩa vụ giải trình, trách nhiệm quản lý kinh tế của người đứng đầu, cán bộ quản lý. Qua đó, năng lực điều hành của Bộ, ngành, HĐND các cấp được nâng cao, cơ chế giám sát và vai trò KTNN cũng được đáp ứng cùng với vai trò của HĐND, giúp chính quyền Nhà nước các cấp thực hiện tốt vai trò quản lý theo phân cấp (Nguyễn Thị Thanh Diệp, 2016).

Việc này cũng làm tăng trách nhiệm giải trình của các cấp và cũng gia tăng xung đột chính sách với những ý kiến bất đồng về quan điểm của các đại biểu. Trong trường hợp quyết định của cấp có thẩm quyền theo biểu quyết đa số tán thành nhưng chính sách thất bại sẽ có những quan điểm bất đồng. Vì vậy, chủ thể KTNN là một đại biểu trung gian, có trách nhiệm đưa ra chứng kiến và tham vấn những bất đồng quan điểm về chính sách điều hành quản lý. Loại hình kiểm toán của KTNN được áp dụng chủ yếu là kiểm toán tuân thủ, KTHĐ, là công cụ pháp lý để KTNN tổ chức thực hiện kế hoạch chiến lược KTHĐ trong các lĩnh vực có nhiều rủi ro, xung đột chính sách qua thực hiện. Trong đó, việc thực hiện phương thức tổ chức tiền kiểm, hiện kiểm trong KTHĐ và lập báo cáo nhanh về hoạt động theo phân kỳ, phân khúc đối với chu trình QLNS, tài chính, tài sản công là mục tiêu chính.

Thứ hai, về thực hiện phương thức QLTC, tài sản công: Vai trò KTNN cũng đưa ra quan điểm thay đổi phương thức QLTC công theo hướng đầu vào sang quản lý đầu ra và kết quả sẽ thuận lợi hơn trong tổ chức KTHĐ. Tức là, dự toán ngân sách được lập theo các yếu tố đầu vào phải bao quát hết đầu ra của kỳ quyết toán trước và



có sự so sánh, điều chỉnh kịp thời tại khâu đầu vào; yếu tố đầu ra khi quyết toán ngân sách phải dự kiến cả yếu tố đầu vào của kỳ sau. Điều này giúp KTNN lập báo cáo KTHĐ với mục tiêu đánh giá tính kinh tế, hiệu quả, hiệu lực và hiệu năng quản lý tại các cấp QLNN sẽ hiệu nghiệm hơn, hiệu lực hóa kết quả kiểm toán cho việc quyết định tham vấn quản lý trong trung hạn và dài hạn (Nguyễn Thị Thanh Diệp, 2016).

Theo quan điểm đổi mới QLTC công theo kết quả đầu ra cho thấy hiệu quả ở chỗ: Năng suất và kết quả theo trách nhiệm quản lý của các cấp và gắn với quyền lực của cấp đó. Đối với yếu tố đầu vào của ngân sách được hoạch định theo đầu việc và khoán sản phẩm, khoán tự chủ theo năng lực quản lý đã phân cấp thì việc đánh giá vấn đề tại báo cáo KTHĐ dễ đạt được mục tiêu cho KTHĐ.

Thứ ba, quan điểm nâng cao năng lực tự chủ tại các cấp về QLTC, biên chế và tiền lương: Chính sách này được thực hiện từ năm 2015 theo Nghị định của Chính phủ Số 16/2015/NĐ-CP cùng với Luật NSNN năm 2015 được thay thế, hoàn thiện. Kết quả kiểm toán cho thấy, bộ máy biên chế Nhà nước đã tinh giảm được nhiều lao động, tiết kiệm quỹ lương cho ngân sách. KTNN đã và đang tổ chức thực hiện KTHĐ toàn hệ thống các đơn vị thực hiện tự chủ giai đoạn 2015-2018, giai đoạn 2019-2023 để đánh giá mức độ hoàn thành mục tiêu theo chủ trương của Đảng, CSPL của Nhà nước.

4.1.2 Quan điểm nâng cao vai trò của Kiểm toán Nhà nước

Quan điểm đổi mới để nâng cao vai trò của KTNN cần nhìn nhận dưới nhiều góc độ khách quan phù hợp với thực tiễn hiện nay (Nguyễn Đăng Hưng, 2017).

Thứ nhất, nâng cao vai trò KTNN phải phù hợp với đường lối, chủ trương của

Đảng, CSPL của Nhà nước trong QLTC, tài sản công

Tại Điều 09 Luật KTNN 2015 quy định: “Kiểm toán Nhà nước có chức năng đánh giá, xác nhận, kết luận và kiến nghị đối với việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công”. Khác với quy định trước đây của Luật KTNN năm 2005 quy định KTNN có chức năng, nhiệm vụ kiểm toán ngân sách, tiền và tài sản của Nhà nước. Quy định mới đã mở rộng về phạm vi, đối tượng kiểm toán cũng như quy định về tài sản công bao gồm cả tài nguyên, khí tài vùng trời, không phận, mặt nước, mặt biển, lòng biển,... Quy định về tài chính công bao gồm cả các quỹ tài chính ngoài NSNN, các nguồn viện trợ, tài trợ, tài sản được hình thành từ các nguồn huy động hợp pháp khác. Như vậy, với yêu cầu quản lý ngày càng đa dạng, quy mô rộng hơn thì vai trò, vị trí pháp lý của KTNN cũng dần được nâng cao nhằm giúp cho Nhà nước thực hiện chức năng quản lý tốt nền kinh tế vĩ mô.



Điều 23 Luật NSNN năm 2015 quy định KTNN “Tham gia với Ủy ban tài chính, ngân sách và các cơ quan khác của Quốc hội, Chính phủ trong việc xem xét, thẩm tra báo cáo về dự toán ngân sách Nhà nước, phương án phân bổ ngân sách trung ương, phương án điều chỉnh dự toán ngân sách Nhà nước”. Chức năng, quyền hạn của KTNN không chỉ dừng lại ở phạm vi HĐKT, báo cáo kết quả kiểm toán lên Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội mà còn tham gia vào xây dựng dự toán, thảo luận dự toán, điều hành dự toán NSNN, dự thảo Luật. Quy định đổi mới phù hợp hơn so với quy định của Luật NSNN năm 2002, vai trò của KTNN được nâng cao hơn qua chức năng, phạm vi hoạt động được quy định cụ thể hơn, rộng lớn hơn.

Nghị quyết số 999/2020/UBTVQH14 ngày 16/9/2020 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Việt Nam với mục tiêu phát triển KTNN giai đoạn 2021-2030 “Phát triển KTNN là công cụ trọng yếu, hữu hiệu của Đảng và Nhà nước trong kiểm tra, kiểm soát việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công” theo đó là sự phấn đấu phát triển của KTNN phải tăng cường KTHĐ đạt tỷ lệ khoảng 30% đến 40% số lượng các cuộc kiểm toán hằng năm trong toàn ngành. Tại Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3, Ban chấp hành Trung ương khóa VIII quy định "Đề cao vai trò của cơ quan KTNN trong việc kiểm toán mọi cơ quan, tổ chức có sử dụng NSNN. Cơ quan KTNN báo cáo kết quả kiểm toán cho Quốc hội, Chính phủ và công khai cho dân biết". Quy định đổi mới và rất đồng bộ so với Luật KTNN, Luật NSNN năm 2015 là cung cấp thông tin hữu ích cho công chúng luôn quan tâm đối với những lĩnh vực có nhiều rủi ro, gây bức xúc trong dư luận nhằm đề cao tính dân chủ, minh bạch trong QLTC, tài sản công.

Hiến pháp sửa đổi năm 2013 đã quy định rõ vai trò của KTNN phải được hiến định độc lập, là việc nâng cao vai trò độc lập gắn với các hoạt động giám sát, kiểm soát QLTC, quản lý công vụ của Nhà nước các cấp như vai trò của Quốc hội và Chính phủ; vai trò ấy phải được thiết chế độc lập quyền lực công thuộc về BMKT trong HĐKT và trong QLTC, tài sản công chỉ tuân theo Hiến pháp và pháp luật. KTNN có quyền hạn kiến nghị, chấn chỉnh những sai sót, tồn tại của Chính phủ, Ủy ban Tài chính - Ngân sách Quốc hội nhưng lại được Quốc hội kiểm soát lại hoạt động của KTNN.

Như vậy, trên cơ sở đường lối, chủ trương của Đảng, CSPL của Nhà nước quy định và đổi mới theo từng thời kỳ thì vai trò của KTNN cũng được nâng cao ở một vị thế nhất định, cụ thể hơn trong hoạt động, phù hợp với thực tiễn tại Việt Nam và trên thế giới, tạo điều kiện cho KTNN hợp tác đa phương, song phương với các SAIs trong khu vực và cộng đồng quốc tế.

Thứ hai, nâng cao vai trò KTNN trong QLTC, tài sản công là nâng cao vai trò kiểm soát, giám sát hoạt động trong QLTC, tài sản công



Công tác kiểm tra, giám sát hoạt động QLTC, tài sản công là giúp cho Quốc hội, Chính phủ và người sử dụng thông tin kiểm soát kịp thời, toàn diện quá trình vận động của nền kinh tế, góp phần hoạch định chính sách và hiệu quả trong quản lý của từng thời kỳ ổn định kinh tế. Theo quy định của pháp luật, vai trò giám sát trong QLTC, tài sản công của Quốc hội được quy định rất rõ ràng, Quốc hội giám sát và ban hành các nghị quyết về quản lý, điều hành thu, chi ngân sách. Thông tin kiểm toán được KTNN báo cáo cho Quốc hội hàng năm để Quốc hội căn cứ định hướng phương án điều chỉnh các quy định của pháp luật. Vai trò của KTNN đã được hiến định hoạt động độc lập là thay thế cho Quốc hội, Chính phủ kiểm soát, giám sát tài chính, ngân quỹ quốc gia trong phạm vi, từng thời điểm, từng thời kỳ theo luật định. Hoạt động độc lập của KTNN lại được Quốc hội kiểm soát theo quy định (kiemtoannn.gov.vn).

Vì vậy, để tăng cường vai trò giám sát hoạt động QLTC, tài sản công của Quốc hội cần đẩy mạnh vai trò của các cơ quan công quyền cao nhất của Quốc hội là cụ thể vào những hoạt động giám sát, kiểm soát quản lý trung gian giữa cấp quản lý và cấp sử dụng nguồn lực công. Chủ thể KTNN được xem xét ở vị trí pháp lý cao nhất là cơ quan công quyền có vai trò thực hiện KTHĐ đối với việc quản lý và sử dụng tài chính, tài sản công báo cáo Quốc hội, Chính phủ và công khai kết quả KTHĐ.

Thứ ba, nâng cao vai trò KTNN trong QLTC, tài sản công phải phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế

Sự ra đời và phát triển hoạt động của KTNN Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế ASOSAI lần thứ 14, tháng 9 năm 2018. KTNN Việt Nam đăng cai nước chủ nhà Đại hội tại Việt Nam nhằm phát triển loại hình KTHĐ, kiểm toán môi trường, kiểm toán nợ công và kiểm toán công nghệ thông tin trong thời đại Cách mạng công nghiệp 4.0 phù hợp với thông lệ quốc tế và đạo Luật một số SAIs.

Tại Đại hội ASOSAI lần thứ 7, năm 1997, KTNN Việt Nam chính thức gia nhập Đại hội, Đại hội đã chỉ rõ vai trò chính lần này là: “Vai trò của SAI trong thúc đẩy hiệu lực và hiệu quả quản trị khu vực công qua loại hình kiểm toán hoạt động”. KTNN Việt Nam là đầu tầu của các SAIs, luôn coi trọng và phát huy được nhiệm vụ hàng đầu là lập kế hoạch KTHĐ tổ chức tiền kiểm, hiện kiểm trong các lĩnh vực có nhiều rủi ro và gây bức xúc trong công chúng từ năm 2015 về sau nhằm đánh giá tính kinh tế, hiệu quả, hiệu lực và hiệu năng trong hoạt động và vận hành của hệ thống tài sản công; vận dụng triệt để phương thức tiền kiểm nhằm giám sát, kiểm soát trước và trong các hoạt động liên tục của một đối tượng kiểm toán và được kiểm tra xuyên suốt cả một quá trình hoạt động và vận hành; giúp cho Quốc hội thực hiện tốt chức năng của mình và định hướng chiến lược, ban hành chính sách, chế độ trong QLTC, tài sản



công. Xuất phát từ quan điểm đổi mới, KTNN Việt Nam nhanh chóng phát triển toàn diện về tổ chức bộ BMKT, tăng cường vai trò trong kiểm soát, giám sát quản lý công phù hợp với chủ trương, định hướng quốc tế (kiemtoannn.gov.vn).

Thứ tư, nâng cao vai trò KTNN trong QLTC, tài sản công là nâng cao nhận thức của công chúng và khách thể kiểm toán trong mối quan hệ hợp tác

Theo Luật KTNN năm 2015, vai trò của KTNN rất quan trọng trong mối quan hệ hợp tác công vụ với khách thể kiểm toán là đề cao nhận thức về hoạt động tương quan, hoạt động nội nghiệp và ngoại nghiệp giữa các bên. Quan điểm hợp tác trong mối quan hệ tốt giúp cho các cấp QLNN hoàn thiện hệ thống pháp luật hiện hành và hệ thống QLTC công, hành chính công. Chủ thể kiểm soát quản lý có cách nhìn tổng thể sự vận hành của nền kinh tế mở và quản lý nền tài chính công cũng như những hoạt động hiệu quả, hiệu lực của các chương trình, dự án, chính sách đầu tư phát triển được hình thành trong cả quá trình đầu tư làm tiêu hao nguồn lực tài chính công. Quá trình ấy nảy sinh những mâu thuẫn, tồn tại trong điều hành, quản lý mà người thừa nhiệm, cấp quản lý hay người sử dụng thông tin không thể kiểm soát ở mọi thời điểm hoặc kiểm soát tổng thể cả quá trình vận hành và hoạt động. Vì vậy, quan điểm đổi mới vai trò của một cơ quan công quyền của Quốc hội được hiến định nhằm giúp cho các cấp lãnh đạo, QLTC, tài sản công thực hiện tốt chức năng kiểm soát vĩ mô nền kinh tế mở trong xu thế hội nhập và phát triển đất nước. Mối quan hệ hợp tác giữa chủ thể KTNN và chủ thể quản lý của nền kinh tế được nâng cao, đẩy mạnh hợp tác là tất yếu khách quan, là yêu cầu cấp bách nhằm tháo gỡ kịp thời những bất cập, tồn tại trong quá trình quản lý.

Hiện nay, công chúng đang ngày một quan tâm đến những kết quả kiểm toán, những thông tin hữu ích cho những quan hệ hợp tác kinh tế, song phương, đa phương trong và ngoài nước. Những lĩnh vực có nhiều tranh cải, gây bức xúc trong dư luận như: Đất đai, tài nguyên khoáng sản, tranh chấp nguồn lợi, ô nhiễm môi trường,... đang cần có một cơ quan có vai trò cao nhất trong bộ máy Nhà nước đưa ra những công bố chính thức, minh bạch và công bằng, công khai những thông tin, giải quyết vướng mắc để dân biết, dân bàn, dân tham gia. Vì vậy, nâng cao vai trò, chức năng nhiệm vụ của KTNN là đổi mới phương pháp điều hành của Quốc hội, Chính phủ trong tiến trình QLTC, tài sản công. HĐKT của KTNN luôn gắn với vai trò hợp tác giữa công chúng, doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế nhằm cung cấp thông tin hữu ích, trung thực để chủ thể KTNN đưa ra kết luận, kiến nghị, tháo gỡ bất đồng, giải tỏa trách nhiệm giúp cho công chúng, người sử dụng thông tin kỳ vọng vào sự minh bạch kết quả kiểm toán, đồng thời giúp các SAIs xác nhận thông tin hữu ích và báo cáo Đại hội thường niên lên Cơ quan kiểm toán tối cao quốc tế thuộc các khu vực toàn cầu (kiemtoannn.gov.vn).


4.2 Phương hướng nâng cao vai trò Kiểm toán Nhà nước trong quản lý tài chính, tài sản công với mục tiêu kiểm toán hoạt động

Những định hướng trước mắt và lâu dài mà KTNN phải xác định được giá trị cốt lõi với vai trò, vị trí pháp lý là:

Thứ nhất, vai trò KTNN phải đặt trong mối quan hệ với các Cơ quan kiểm toán quốc tế tối cao và theo định hướng hội nhập: Vai trò cốt lõi nhất đối với KTNN Việt Nam trong xu thế hội nhập quốc tế các Tổ chức kiểm toán tối cao dành cho Việt Nam là phải ưu tiên hàng đầu, đẩy mạnh phát triển loại hình KTHĐ vào các lĩnh vực: Công nghệ thông tin, môi trường, nợ công, cụ thể là lập kế hoạch chiến lược, xây dựng và thực hiện kế hoạch chiến lược KTHĐ, vận dụng thành công chuẩn mực kiểm toán quốc tế ISSAIs về KTHĐ vào các lĩnh vực môi trường, công nghệ thông tin, các chương trình, dự án, chính sách đầu tư, phát triển kinh tế, an sinh xã hội; thực hiện tốt phương thức tổ chức tiền kiểm, hiện kiểm để đánh giá hiệu quả, hiệu lực trong quản lý nguồn lực công của KTNN gắn với các hoạt động giám sát, kiểm soát quản lý Nhà nước tại các cấp; tăng cường pháp chế, quyền hạn trong việc thực hiện kiểm tra, tham vấn cải cách chính sách công và đầu tư công mà các SAIs đang quan tâm. Như vậy, vai trò của KTNN Việt Nam luôn phải đặt trong các mối quan hệ hợp tác với vai trò các SAIs trong định hướng chiến lược phát triển chung, phát triển KTHĐ vì sự nghiệp môi trường cộng đồng phát triển bền vững giúp cho KTNN tăng thêm kinh nghiệm, năng lực kiểm toán nâng cao vai trò trên chính trường quốc tế (kiemtoannn.gov.vn).

Thứ hai, vai trò KTNN trong QLTC, tài sản công phải được đặt trong mối quan hệ cải cách nền hành chính công: Công cuộc CCHC công ở nước ta đang đặt trong bối cảnh cấp bách và đổi mới theo xu thế hội nhập và hiện đại hóa công nghệ thông tin. Hiện nay, Chính phủ đang triển khai hệ thống công nghệ điện tử hóa các cấp chính quyền để tương thích với nền kinh tế đa thành phần. Đây là điều kiện tốt để KTNN thực hiện mục tiêu KTHĐ theo định hướng của các SAIs, KTNN phải tăng cường TCKT trong môi trường công nghệ thông tin, KTHĐ, kiểm toán nợ công và môi trường,... theo mục tiêu định hướng của Đại hội ASOSAI và báo cáo lên các SAIs thành viên. Định hướng KTHĐ trong môi trường công nghệ phải có một hệ thống công nghệ phù hợp, thông minh, đồng bộ với hệ cơ sở dữ liệu lớn (Bigdata) được kế thừa thành tựu của SAI Ấn Độ. Công cuộc CCHC luôn đổi mới, hiện đại thì vai trò KTNN phải luôn phát triển đồng bộ, tích hợp với các đường



truyền công nghệ, kênh, cổng thông tin truyền thông và tin học hóa với hệ thống Chính phủ điện tử, chính quyền điện tử các cấp (kiemtoannn.gov.vn).

Thứ ba, vai trò KTNN trong QLTC, tài sản công phải đặt trong mối quan hệ giữa hệ thống QLTC và môi trường kiểm soát tại các cấp QLNN: Hiện nay, ở nước ta hệ thống kiểm tra, giám sát công chưa đủ mạnh so với các nước trong khu vực, ở các nước có nền kinh tế phát triển đã thiết lập được một hệ thống kiểm tra, giám sát công minh bạch, hiện đại; vì vậy, cải cách nền hành chính công của họ rất hiệu quả, có vai trò to lớn trong tổ chức KTHĐ; hoạt động của KTNN phải luôn đặt trong mối quan hệ với hệ thống QLNN và tương thích với hệ thống công nghệ thông tin, pháp luật và môi trường kiểm soát. Để thực hiện tốt định hướng, mục tiêu KTHĐ theo xu hướng quốc tế hoá của các chủ thể thực hiện KTHĐ khi đặt trong mối quan hệ với khách thể KTHĐ; KTNN phải thường xuyên tham gia vào các cấp HĐND tại các kỳ họp điều hành ngân sách, dự toán, phát triển kinh tế xã hội, tham gia vào ý kiến ban hành các văn bản hiện hành nhằm đưa ra những tham vấn hiệu chỉnh chính sách kịp thời, phù hợp thực tế và quy định pháp luật của Nhà nước; qua đó, chủ thể thực hiện KTHĐ kiểm soát tổng thể, đánh giá vấn đề xác đáng và tham vấn cho Quốc hội, Chính phủ trong kiểm soát, quản lý nền kinh tế (kiemtoannn.gov.vn).

Thứ tư, vai trò KTNN phải đặt trong mối quan hệ với nhận thức của công chúng và sự hợp tác của bên thứ ba: Nhận thức của công chúng về vai trò KTNN rất quan trọng, ở các nước phát triển, KTNN còn có vai trò là đại biểu của dân, có quyền hành cao nhất trong các cơ quan quyền lực Nhà nước và là nơi để tạo mối quan hệ với công chúng, doanh nghiệp, với các thành phần kinh tế. Qua kênh KTHĐ, người sử dụng thông tin có thể khai thác thông tin về tình hình biến động của nền kinh tế, quản lý đầu tư phát triển, chứng khoán, lạm phát,... KTNN thực hiện tốt mục tiêu KTHĐ giúp cho việc công bố kết quả thông tin hữu dụng và sự nhận thức ý nghĩa của việc xác nhận thông tin đáng tin cậy. Từ đó người sử dụng thông tin, nhà đầu tư có thể kỳ vọng lựa chọn hình thức hợp tác đầu tư, quyết định đầu tư và tham gia vào ý kiến đề xuất giải pháp giúp cho các cấp QLNN hoàn thiện cơ chế, chính sách trong điều hành, quản lý và đầu tư phát triển. Vì vậy, mối quan hệ giữa KTNN với công chúng và bên thứ ba là trọng tâm giúp cho chủ thể thực hiện KTHĐ nắm bắt thông tin phản hồi về những vấn đề luôn gây bức xúc như: Vấn đề môi trường, môi sinh, đặc khu kinh tế, quy hoạch,... để KTNN có căn cứ kịp thời đưa vào kế hoạch chiến lược KTHĐ trong ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.

Xem tất cả 208 trang.

Ngày đăng: 28/03/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí