xem xét, xử lý các vi phạm chế độ, chính sách, kỷ luật tài chính, nhất là các vi phạm được lặp đi, lặp lại, sai phạm cố ý có tính hệ thống.
Kiểm toán Nhà nước cần tăng cường công tác kiểm tra, soát xét chất lượng kiểm toán và đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên; tăng cường phân công, phân cấp cho các đơn vị tham mưu và các Kiểm toán Nhà nước chuyên ngành, khu vực trong công tác kiểm toán. Xác định rõ trách nhiệm, quyền hạn của từng cấp liên quan đến hoạt động kiểm toán.
Để nâng cao chất lượng kiểm toán trong xu thế hội nhập, Kiểm toán Nhà nước cần tiếp thu áp dụng những phương pháp kiểm toán mới, tham gia những cuộc kiểm toán liên quốc gia; tăng cường ứng dụng rộng rãi phương pháp kỹ thuật tiên tiến, hiện đại và công nghệ tin học trong hoạt động kiểm toán.
Ngoài ra để thực hiện một số nhiệm vụ quan trọng của Kiểm toán Nhà nước theo quy định của Luật Kiểm toán nhà nước và thông lệ quốc tế, đó là việc ủy thác hoặc thuê doanh nghiệp kiểm toán; tăng cường hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ kiểm toán nội bộ, sử dụng kết quả thanh tra, kiểm tra, kiểm toán nhằm tăng cường hiệu quả của công tác kiểm toán.
3.3.3. Tăng cường sự phối hợp giữa Cơ quan Kiểm toán Nhà nước với các cơ quan kiểm tra, giám sát
Ở nước ta, quyền lực nhà nước thống nhất trên phương diện quản lý vĩ mô, nhà nước sử dụng quyền lực này thông qua hệ thống các công cụ kiểm tra, kiểm soát của mình. Cơ quan Kiểm toán Nhà nước và các cơ quan kiểm tra khác của nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình theo luật định ở tất cả các giai đoạn của quá trình quản lý. Từ đây có thể rút ra kết luận hoạt động kiểm toán, thanh tra, giám sát hiện nay cũng như lâu dài sẽ do nhiều cơ quan đảm nhiệm (hiện tại có 04 cơ quan là Ủy ban Kiểm tra Trung ương; Thanh tra Chính phủ; Kiểm toán Nhà nước; Thanh tra Tài chính), dưới nhiều hình thức, phương thức và đều với tư cách là biện pháp thực thi quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, trong tổ chức bộ máy nhà nước có nguyên tắc pháp lý chung những vấn đề đã thuộc
thẩm quyền của cơ quan này thì sẽ không đồng thời thuộc thẩm quyền của cơ quan khác. Vì vậy, cần có sự phân công rành mạch, rõ ràng cũng như cần có sự phối hợp hiệu quả, nhịp nhàng giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà nước nói chung và thực hiện chức năng kiểm toán, thanh tra, giám sát nói riêng. Do đó, theo quan điểm của tác giả cần phải ổn định về địa vị pháp lý và tổ chức bộ máy; hoàn thiện cơ chế quản lý và phân định phạm vi hoạt động của từng cơ quan giám sát, thanh tra, kiểm tra và kiểm toán một cách khoa học, phù hợp yêu cầu và nội dung quản lý. Việc phân định rõ chức năng và sự phối hợp giữa các cơ quan trên cần được quy định cụ thể trong các văn bản quy phạm pháp luật theo hướng:
Trước hết, cần xác định rõ địa vị pháp lý, chức năng nhiệm vụ của từng cơ quan giám sát, thanh tra, kiểm tra và kiểm toán cho hợp lý nhằm hạn chế đến mức thấp nhất sự chồng chéo về chức năng, nhiệm theo hướng sát nhập như đã nêu ở phần trên.
Có thể bạn quan tâm!
- Yêu Cầu Thực Hiện Xã Hội Hóa Sản Xuất Trong Điều Kiện Kinh Tế Thị Thường
- Phương Hướng Tăng Cường Vai Trò Của Kiểm Toán Hoạt Động Ở Việt Nam Những Năm Tới
- Nâng Cao Nhận Thức Của Đơn Vị Về Hoạt Động Kiểm Toán Nói Chung Và Kiểm Toán Hoạt Động Nói Riêng
- Tăng cường vai trò của kiểm toán hoạt động ở Việt Nam do kiểm toán nhà nước thực hiện - 22
- Hoàn Thiện Tổ Chức Bộ Máy Và Chế Độ Đãi Ngộ Cho Kiểm Toán Viên
- Tăng Cường Cơ Sở Vật Chất Cho Cơ Quan Kiểm Toán Nhà Nước
Xem toàn bộ 208 trang tài liệu này.
Kế đó, nghiên cứu, xây dựng quy chế phối hợp giữa các cơ quan kiểm tra, thanh tra, giám sát và kiểm toán trong công tác cung cấp thông tin về kế hoạch kiểm toán và kết quả thanh tra, kiểm tra, giám sát, kiểm toán phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan và quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng...
Tiếp nữa, nghiên cứu, xây dựng quy chế phối hợp giữa Kiểm toán Nhà nước với từng cơ quan kiểm tra, thanh tra, giám sát trong quá trình xử lý các hành vi vi phạm pháp luật đã được từng cơ quan phát hiện; phối hợp trong việc thông báo kết quả thực hiện kết luận và kiến nghị của Kiểm toán Nhà nước và xây dựng cơ chế để đôn đốc và xử lý các đơn vị không thực hiện nghiêm túc kết luận và kiến nghị của Kiểm toán Nhà nước…
Sau cùng, nghiên cứu, xây dựng quy chế phối hợp giữa Kiểm toán Nhà nước với các địa phương (kể cả thành uỷ và tỉnh uỷ) trong việc cung cấp thông tin về tình hình kinh tế - xã hội của địa phương; tình hình phòng chống tham nhũng; tình hình thanh tra, kiểm tra; trong qúa trình kiểm toán và thông báo
kết quả kiểm toán ngân sách địa phương cũng như trong quá trình đôn đốc, kiểm tra theo dõi thực hiện kiến nghị kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước...
3.3.4. Hoàn chỉnh cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của Cơ quan Kiểm toán Nhà nước
Những đồng tiền được đóng góp từ công sức của nhân dân. Nên nhất thiết cần có sự thống nhất về nhận thức, quan điểm về sự phân công nhiệm vụ và quyền hạn giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp trong bộ máy quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh tế, tài chính để tạo ra sự đồng thuận, ủng hộ và hợp tác cũng như việc giám sát các ngành, các cấp và toàn xã hội đối với hoạt động kiểm tra, kiểm soát chi tiêu ngân sách nhà nước, vì một nền tài chính quốc gia minh bạch, lành mạnh.
Để có được sự thống nhất nói trên, tạo tiền đề cho kiểm toán hoạt động, nhất thiết phải hoàn chỉnh toàn diện, đồng bộ cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của Cơ quan Kiểm toán Nhà nước. Việc hoàn chỉnh này cần được thực hiện theo hướng nghiên cứu, đề xuất bổ sung vào Hiến pháp một số điều khoản quy định đầy đủ và toàn diện về địa vị pháp lý, tính độc lập của Cơ quan Kiểm toán Nhà nước và của Tổng Kiểm toán Nhà nước (kể cả kiểm toán viên) như Tổ chức các Cơ quan Kiểm toán Tối cao (INTOSAI) đã khuyến cáo tại Khoản 5, Khoản 6 và Khoản 7 Tuyên bố Li ma như sau:
Khoản 5 khuyến cáo: Việc thành lập Cơ quan Kiểm toán Tối cao và mức độ độc lập cần thiết của nó cần được quy định trong Hiến pháp...; Khoản 6 khuyến cáo: Tính độc lập của Cơ quan Kiểm toán Tối cao không thể tách rời tính độc lập của nhân viên của nó. Nhân viên ở đây được hiểu là những người phải đưa ra các quyết định đại diện cho Cơ quan Kiểm toán Tối cao và phải chịu trách nhiệm về bên thứ ba; các thành viên của cơ quan ra quyết định hay người đứng đầu của Cơ quan Kiểm toán Tối cao. Tính độc lập của các nhân viên cũng cần phải được quy định trong Hiến pháp. Đặc biệt,
thủ tục bãi miễn (cũng được quy định trong Hiến pháp) không được làm ảnh hưởng đến tính độc lập của các nhân viên. Cách thức bổ nhiệm và bãi nhiệm nhân viên tuỳ thuộc vào Hiến pháp của từng quốc gia cụ thể và Khoản 7 khuyến cáo: Cơ quan Kiểm toán Tối cao phải được cung cấp các phương tiện tài chính để có thể hoàn thành các nhiệm vụ của mình. Nếu cần, Cơ quan Kiểm toán Tối cao có quyền đề nghị cung cấp các phương tiện tài chính trực tiếp với các cơ quan hoạch định ngân sách và trong phạm vi trách nhiệm của mình Cơ quan Kiểm toán Tối cao có quyền sử dụng các quỹ được phân bổ cho mình theo một kênh ngân sách riêng[95].
Tổng kết, đánh giá việc thực hiện từ đó kiến nghị bổ sung hoặc sửa đổi một số điều của Luật Kiểm toán nhà nước và các luật khác có liên quan, như: chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan thanh tra, kiểm tra, giám sát và kiểm toán, cũng như việc sát nhập và sắp xếp lại các cơ quan nói trên; nhiệm vụ kiểm toán của các đơn vị trực thuộc kiểm toán nhà nước, quy trình giới thiệu Tổng Kiểm toán Nhà nước… Bên cạnh đó, cần xây dựng một hệ thống văn bản nghiệp vụ hướng dẫn thực hiện kiểm toán hoạt động trên cơ sở phù hợp với chuẩn mực và thông lệ quốc tế và triển khai có hiệu quả trong điều kiện kinh tế - xã hội riêng của Việt Nam. Cụ thể là:
Thứ nhất, Bổ sung một số điều khoản quy định đầy đủ và toàn diện về vị trí pháp lý, tính độc lập của Cơ quan Kiểm toán Nhà nước; thẩm quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm Tổng Kiểm toán Nhà nước (kể cả kiểm toán viên nhà nước) trong Hiến pháp Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với những nội dung cơ bản sau:
Một là, Kiểm toán nhà nước là cơ quan kiểm tra tài chính nhà nước cao nhất của Quốc hội Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; có chức năng kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán tuân thủ và kiểm toán hoạt động đối với các cơ quan,
đơn vị, tổ chức có quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước. Kết luận, kiến nghị của Cơ quan Kiểm toán Nhà nước phải được các cơ quan, đơn vị, tổ chức và cá nhân có liên quan tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh.
Hai là, Tổng Kiểm toán Nhà nước do Quốc hội bầu, miễn nhiệm và bãi nhiệm theo đề nghị của Chủ tịch Quốc hội (hoặc Thủ tướng Chính phủ) với nhiệm kỳ là bảy năm, có thể được bầu lại nhưng không quá hai nhiệm kỳ. Phó Tổng Kiểm toán Nhà nước do Quốc hội bầu, miễn nhiệm và bãi nhiệm theo đề nghị của Tổng Kiểm toán Nhà nước với nhiệm kỳ như của Tổng Kiểm toán Nhà nước. Các kiểm toán viên nhà nước có quyền độc lập như Thẩm phán.
Ba là, Ngân sách chi cho bộ máy của Kiểm toán Nhà nước và hoạt động kiểm toán nhà nước, được ngân sách nhà nước cấp thành 01 chương riêng theo đề nghị của Tổng Kiểm toán Nhà nước.
Thứ hai, Hoàn thiện Luật Kiểm toán nhà nước và các văn bản pháp lý khác có liên quan, bao gồm một số nội dung cơ bản sau:
Một là, Sửa đổi Luật Kiểm toán nhà nước, Luật Ngân sách nhà nước, Luật Thanh tra và các luật khác có liên quan để phân định rõ vị trí, chức năng của Kiểm toán Nhà nước với các cơ quan thanh tra, kiểm tra giám sát khác của nhà nước. Theo quan điểm của tác giả do hiện tại ở nước ta đang tồn tại quá nhiều các cơ quan có chức năng thanh tra, kiểm tra, chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ, làm mất khá nhiều thời gian tiếp và làm việc của các cơ quan, tổ chức. Do vậy để phù hợp với công cuộc cải cách hành chính và nhất là trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, đề nghị với Quốc hội, Chính phủ nghiên cứu, xem xét quyết định sắp xếp lại các cơ quan thanh tra, kiểm tra, giám sát và kiểm toán theo hướng chỉ nên để tối đa 02 cơ quan có chức năng thanh tra, kiểm tra, giám sát và kiểm toán của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đó là: (1) Cơ quan Kiểm tra của Đảng (hiện là Ủy ban Kiểm tra Trung ương) và (2) Cơ quan Kiểm toán Tối cao
trực thuộc Quốc hội (hoặc Chính phủ) tức là phải sát nhập 03 Tổ chức có chức năng thanh tra, kiểm tra và kiểm toán hiện nay thành 02 cơ quan đó là: Ủy ban Kiểm tra Trung ương; Thanh tra Chính phủ; Kiểm toán Nhà nước. Đồng thời quy định lại chức năng, nhiệm vụ của Thanh tra Tài chính (Thanh tra Tài chính là đơn vị trực thuộc Bộ Tài chính) sao cho tránh chồng chéo với chức năng, nhiệm vụ của 03 cơ quan trên, bởi theo quy định hiện hành Thanh tra Tài chính hàng năm vẫn đang tiến hành thanh tra tài chính và ngân sách với quy mô rất lớn tại hầu hết các cơ quan, đơn vị thuộc đối tượng thanh tra của Thanh tra Chính phủ và đối tượng kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước, nên tình trạng hiện nay mà hầu hết các ngành, địa phương, doanh nghiệp đang phải gánh chịu là (cơ quan kiểm tra này ra, thì cơ quan kiểm tra khác lại đến hoặc cơ quan này đến kiểm tra thì cơ quan khác lại đến kiểm tra thực hiện kiến nghị...).
Hai là, Sắp xếp và kiện toàn lại chức năng, nhiệm vụ một số đơn vị trực thuộc Kiểm toán Nhà nước theo hướng sau:
Đối với các Kiểm toán Nhà nước chuyên ngành: Phân chia nhiệm vụ theo hướng mỗi đơn vị quản lý trực tiếp một số bộ, ngành ở Trung ương có nhiệm vụ kiểm toán đầy đủ, toàn diện cả 03 lĩnh vực trực thuộc sự quản lý nhà nước của các bộ, ngành đó (hoạt động sự nghiệp, đầu tư xây dựng và doanh nghiệp nhà nước) và cả 03 loại hình kiểm toán (kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán tuân thủ và kiểm toán hoạt động), để thay cho phương án phân bổ nhiệm vụ như hiện nay đó là:
(1) Lĩnh vực ngân sách bộ, ngành ở Trung ương giao cho 03 Kiểm toán Nhà nước chuyên ngành quản lý, với nhiệm vụ chủ yếu là kiểm toán chi thường xuyên, chi đầu tư xây dựng (các dự án từ nhóm B trở xuống trừ Kiểm toán Nhà nước chuyên ngành I được giao quản lý toàn diện lĩnh vực quốc phòng – an ninh) và một số doanh nghiệp nhà nước độc lập trực thuộc bộ, ngành (không thuộc các Tập đoàn và Tổng công ty 90, 91);
(2) Lĩnh vực chi đầu tư xây dựng, chương trình, dự án (chủ yếu ở Trung ương và một số địa phương có quy mô đầu tư lớn như thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh) giao cho 02 Kiểm toán Nhà nước chuyên ngành quản lý, với nhiệm vụ chủ yếu là kiểm toán chi đầu tư xây dựng (các dự án từ nhóm A trở lên, trừ lĩnh vực quốc phòng – an ninh do Kiểm toán Nhà nước chuyên ngành I thực hiện), chương trình mục tiêu quốc gia, chi thường xuyên tại một số đơn vị sự nghiệp và một số doanh nghiệp nhà nước là Tổng công ty Xây dựng 90, 91);
(3) Lĩnh vực doanh nghiệp nhà nước và các tổ chức tài chính ngân hàng giao cho 02 Kiểm toán Nhà nước chuyên ngành quản lý, với nhiệm vụ chủ yếu là kiểm toán báo cáo tài chính của các Tập đoàn, Tổng công ty 90, 91 (trừ các Tổng công ty thuộc lĩnh vực quốc phòng – an ninh do Kiểm toán Nhà nước chuyên ngành I thực hiện), chi thường xuyên tại một số đơn vị sự nghiệp và một số dự án đầu tư có quy mô nhỏ của các Tập đoàn, Tổng công ty 90, 91.
Việc phân chia nhiệm vụ cho các Kiểm toán Nhà nước chuyên ngành như nêu trên của Kiểm toán Nhà nước có khá nhiều bất cập, nên đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng kiểm toán và nhất là việc tổ chức kiểm toán hoạt động trong thời gian qua, được thể hiện:
- Chồng chéo nhiệm vụ và nhất là trong một thời điểm có tới 03 đoàn đến kiểm toán tại đơn vị, mà lãnh đạo bộ, ngành phải tiếp và làm việc;
- Thiếu nhất quán giữa các đơàn trong việc đưa ra các kết luận và kiến nghị kiểm toán đối với cùng một nội dung công việc nhưng do 03 đơn vị khác nhau thực hiện, hoặc cũng với chỉ một nội dung nhưng có tới 03 đoàn kiểm toán kiểm tra, xem xét... (chưa tính đến các đoàn ngoài ngành như Thanh tra Chính phủ; Thanh tra Tài chính; Thanh tra Thuế; Ủy ban Kiểm tra Trung ương và các địa phương...);
- Thiếu nhất quán trong việc phân công nhiệm vụ giữa các đơn vị chuyên ngành, cụ thể: Kiểm toán Nhà nước chuyên ngành I hiện đang thực
hiện nhiệm vụ như tác giả đề xuất (tương tự nhiệm vụ được phân công cho 09 Kiểm toán Nhà nước khu vực), còn lại 06 Kiểm toán Nhà nước chuyên ngành vẫn đang thực hiện theo phương án như đã nêu trên, nên dễ dẫn tới tình trạng có đơn vị làm không hết việc (Kiểm toán Nhà nước chuyên ngành IV, Kiểm toán Nhà nước chuyên ngành V và Kiểm toán Nhà nước chuyên ngành VI), trong khi đó có đơn vị không có đủ việc để làm hoặc để cho kiểm toán viên có việc buộc phải kiểm toán hàng năm ở cả các đơn vị có quy mô nhỏ, ít có sai sót qua các lần kiểm toán trước hoặc mật độ kiểm toán quá dày so với mặt bằng chung của Kiểm toán Nhà nước (Kiểm toán Nhà nước chuyên ngành II, Kiểm toán Nhà nước chuyên ngành III và Kiểm toán Nhà nước chuyên ngành VII)...
Đối với các Kiểm toán Nhà nước khu vực: Việc phân chia nhiệm vụ như hiện nay cơ bản là phù hợp, song sự bất hợp lý hiện nay là việc chia ngân sách địa phương cho 02 đơn vị quản lý (Kiểm toán Nhà nước chuyên ngành I được giao nhiệm vụ kiểm toán thu, chi ngân sách của các Tỉnh ủy, Thành ủy..., còn Kiểm toán Nhà nước khu vực được giao nhiệm vụ kiểm toán thu, chi ngân sách của các đơn vị nhà nước của địa phương còn lại), nên cũng gây một số bất cập như nêu trên và nhất là gây tốn kém ngân sách nhà nước (Kiểm toán Nhà nước có chức năng kiểm toán hoạt động (tức là kiểm toán tính kinh tế, tính hiệu quả và tính hiệu lực) đối với cơ quan, đơn vị, tổ chức quản lý, sử dụng ngân sách và tài sản nhà nước như Điều 14 Luật Kiểm toán nhà nước đã quy định), đề nghị Kiểm toán Nhà nước nên giao cho Kiểm toán Nhà nước khu vực thực hiện đồng thời khi kiểm toán ngân sách địa phương. Có thể nói đây là bất cập lớn nhất hiện nay trong việc phân công nhiệm vụ cho các đơn vị trực thuộc của Kiểm toán Nhà nước (bất cập đứng hàng thứ hai là phân công nhiệm vụ cho các Kiểm toán Nhà nước chuyên ngành như đã nêu trên).
Đối với các tổ chức giúp việc Tổng Kiểm toán Nhà nước (Vụ Tổng hợp, Vụ Chế độ và Kiểm soát chất lượng kiểm toán và Vụ Pháp chế): Chức