Định Hướng Phát Triển Và Quan Điểm Hoàn Thiện Quản Lý Nhà Nước Đối Với Kiểm Toán Độc Lập Ở Việt Nam Đến Năm 2025 Và Tầm Nhìn Đến Năm 2030


CHƯƠNG 4:

HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC

ĐỐI VỚI KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP Ở VIỆT NAM


4.1. Định hướng phát triển và quan điểm hoàn thiện quản lý nhà nước đối với kiểm toán độc lập ở Việt Nam đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2030

4.1.1 Dự báo tình hình kinh tế xã hội và xu hướng phát triển của kiểm toán độc lập ở Việt Nam

Triển vọng kinh tế Việt Nam, theo Standard Chartered dự báo, “Việt Nam nằm trong nhóm 7 nền kinh tế có tăng trưởng 7% tới năm 2030 và GDP bình quân đầu người của Việt Nam được dự báo sẽ đạt mức 10.400 USD”.

Đại hội Đảng lần thứ XIII đã đưa ra mục tiêu tổng quát, đến năm 2030, “Việt Nam hoàn thành mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; thuộc nhóm 3 nước dẫn đầu khu vực ASEAN về công nghiệp, trong đó một số ngành công nghiệp có sức cạnh tranh quốc tế và tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu. Mục tiêu kinh tế, xã hội và cải cách tài chính đã chỉ rõ tầm nhìn đến năm 2035: “(l) GDP nền kinh tế đạt 700 tỉ USD, bình quân đầu người đạt tối thiểu 18.000 USD (tính theo sức mua tương đương bằng đô-la Mỹ) hoặc 7.000USD (theo GDP thực tế); (2) Đa số người dân sống tại khu vực đô thị (trên 50%); (3) Tỉ trọng công nghiệp và dịch vụ chiếm trên 90% GDP và trên 70% lao động nền kinh tế làm việc trong các ngành công nghiệp và dịch vụ; (4) Tỉ trọng đóng góp của kinh tế tư nhân trong GDP chiếm tối thiểu 80%; (5) Chỉ số phát triển con người đạt trên 0,7”

Với mục tiêu kinh tế, xã hội và cải cách tài chính đề ra, xu hướng phát triển của KTĐL ở Việt Nam đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2035 sẽ là:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 218 trang tài liệu này.

Thứ nhất, thị trường KTĐL ở Việt Nam sẽ có sự tham gia nhiều hơn của các nhà đầu tư nước ngoài

KTĐL sẽ mở cửa không hạn chế và cho phép các nhà cung cấp dịch vụ kiểm toán của các nước thành viên khác được cung cấp dịch vụ kiểm toán qua biên giới. KTĐL sẽ phát triển theo hướng tự do, mở cửa, theo lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế, các đơn vị, tổ chức được sử dụng dịch vụ kiểm toán của quốc tế. Mặt khác các DNKiT và KTV Việt Nam cũng có cơ hội cung cấp dịch vụ ra bên ngoài.

Quản lý nhà nước đối với kiểm toán độc lập ở Việt Nam - 17

Thứ hai, cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ được ứng dụng mạnh mẽ vào KTĐL

Cách mạng công nghiệp 4.0 được định hướng bởi nền tảng công nghệ cốt lõi như: Điện toán đám mây, trí tuệ nhân tạo, người máy thông minh, công nghệ chuỗi khối, … Những sản phẩm và dịch vụ ứng dụng của các công nghệ này là các phần mềm máy tính hoặc tích hợp trong các máy móc, thiết bị tự động hóa nhằm thay đổi từng phần hoặc toàn bộ các công việc, thao tác của KTV. Công nghệ nhận dạng hình ảnh và học máy sẽ


giúp cho việc nhập dữ liệu nhanh chóng. KTV và các DNKiT sẽ được ứng dụng sâu rộng công nghệ tiên tiến thay cho các kỹ thuật kiểm toán truyền thống vào trong hoạt động kiểm toán. Trước đây, khi thực hiện kiểm toán, KTV phải sử dụng các kỹ thuật kiểm tra chi tiết các nghiệp vụ và số dư tài khoản hoặc sử dụng kỹ thuật chọn mẫu, … để thu thập bằng chứng làm cơ sở cho việc đưa ra ý kiến nhận xét về BCTC của đơn vị được kiểm toán trong báo cáo kiểm toán. Việc ứng dụng công nghệ tiên tiến cho phép đơn giản hóa việc phân loại chứng từ, xử lý từng nghiệp vụ kinh tế riêng lẻ, ghi các loại sổ kế toán. Với hàng triệu giao dịch và phải phân tích khối lượng khổng lồ dữ liệu kế toán, với công nghệ tiên tiến giờ đây KTV dễ dàng khoanh vùng khu vực rủi ro có sai sót trọng yếu làm giảm rất nhiều chi phí và thời gian kiểm toán. Với ứng dụng trí tuệ nhân tạo giờ đây các DNKiT sử dụng công cụ phân tích dự báo (preditive analytics) sẽ giúp tăng chất lượng và giảm thời gian kiểm toán. Mức độ ứng dụng công nghệ tiên tiến vào KTĐL chứa đựng nhiều cơ hội và thách thức đối với các DNKiT và tác động nhiều mặt đến xu thế phát triển của KTĐL.

Thứ ba, các DNKiT sẽ mở rộng quy mô, tăng cường năng lực cạnh tranh theo hướng đa dạng hoá các loại hình dịch vụ cung cấp và nâng cao chất lượng dịch vụ kiểm toán

Thị trường KTĐL ở Việt Nam là một thị trường tiềm năng do quy mô và tốc độ phát triển của DNKiT ở Việt Nam hiện còn thấp so với các nước trong khu vực. Xu hướng sẽ phát triển mạnh về số lượng DNKiT và nguồn nhân lực đảm bảo chất lượng đáp ứng yêu cầu của thị trường và phù hợp với từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế. Các chi nhánh, văn phòng của DNKiT ở các tỉnh, thành phố sẽ khuyến khích phát triển và tách thành các doanh nghiệp hạch toán độc lập.

Xu hướng đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2030 sẽ đa dạng hoá và mở rộng các loại hình dịch vụ kiểm toán, như: Kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán vì mục đích thuế, kiểm toán tuân thủ, kiểm toán hoạt động, kiểm toán báo cáo quyết toán vốn đầu tư xây dựng của các dự án đầu tư và nâng cao chất lượng dịch vụ đạt các tiêu chuẩn chất lượng được khu vực và quốc tế thừa nhận. Các DNKiT sẽ hướng tới cạnh tranh lành mạnh và cạnh tranh về chất lượng dịch vụ, hạn chế và loại bỏ dần hình thức cạnh tranh giảm giá phí dịch vụ ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ kiểm toán. Các DNKiT sẽ hướng tới cạnh tranh thông qua chất lượng dịch vụ kiểm toán bằng cách đảm bảo duy trì thủ tục kiểm soát, quy trình kiểm toán.

4.1.2 Định hướng phát triển kiểm toán độc lập ở Việt Nam đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2030

Thứ nhất, phát triển KTĐL phù hợp với định hướng phát triển nền kinh tế, xã hội và tài chính quốc gia trong từng thời kỳ, đảm bảo thực hiện các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên.


Ở mỗi một thời kỳ, Nhà nước sẽ có những định hướng phát triển kinh tế nhất định đòi hỏi phát triển KTĐL phải phù hợp với những định hướng đó. Giai đoạn 2021 - 2030, bối cảnh kinh tế xã hội đặt ra các mục tiêu, yêu cầu và nhiệm vụ mới. Hiệp định thương mại khu vực và quốc tế sẽ làm gia tăng nhu cầu về BCTC chất lượng cao. Việc thành lập Cộng đồng Kinh tế ASEAN và Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Liên minh Châu Âu đòi hỏi hài hòa về quy định và áp dụng các thông lệ quốc tế tốt nhất. Sự phát triển của KTĐL phụ thuộc vào mức độ sẵn sàng và khả năng tham gia tích cực của Việt Nam trong quá trình thay đổi này. Nhà nước cần xây dựng hệ thống cơ chế, chính sách đối với KTĐL đầy đủ, minh bạch, bình đẳng và đồng bộ, tạo thuận lợi phát triển của KTĐL và bảo đảm thực hiện các nghĩa vụ cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

Xu hướng toàn cầu hóa, khu vực hóa và các hiệp định thương mại quốc tế sẽ ngày càng tác động lớn tới tăng trưởng kinh tế làm tăng nhu cầu hài hòa các quy định và tuân thủ các chuẩn mực quốc tế. KTĐL phải thể hiện vai trò của mình trong quá trình chuyển biến và đồng nhất chuẩn mực kiểm toán trên toàn cầu. KTĐL ở Việt Nam còn rất non trẻ, đi sau các nước phát triển trên thế giới hàng trăm năm nên việc tiếp cận các chuẩn mực được xây dựng và chứng minh trên thực tiễn là rất cần thiết. Nhà nước phải tổ chức tốt công tác quản lý, thực hiện giám sát chuyên nghiệp, hiện đại và hiệu quả, tiếp cận các chuẩn mực, thông lệ quốc tế và từng bước thu hẹp khoảng cách phát triển của KTĐL với các quốc gia trong khu vực.

Thứ hai, mở rộng và phát triển KTĐL trên cả hai phương diện cung và cầu

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ, để phù hợp với định hướng phát triển nền kinh tế - xã hội và tài chính quốc gia, KTĐL sẽ mở rộng và phát triển trên cả 2 phương diện cung và cầu:

Về phương diện “Cầu”, định hướng phải mở rộng đối tượng kiểm toán theo luật định và tăng cường khuyến khích các đối tượng kiểm toán tự nguyện, đến 2025 đạt 75% đơn vị, tổ chức kinh tế thuộc diện kiểm toán. Chiến lược kế toán, kiểm toán đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, chỉ rõ, “phải mở rộng đối tượng sử dụng dịch vụ kiểm toán, tăng cường sự minh bạch thông tin tài chính trong nền kinh tế để phù hợp với sự phát triển và yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế trong bối cảnh đẩy mạnh sự tăng trưởng về số lượng DNKiT và đội ngũ KTV. Trên cơ sở sự lớn mạnh của hệ thống các đơn vị cung cấp dịch vụ kiểm toán sẽ mở rộng diện bắt buộc kiểm toán, sau 2020 đạt chỉ tiêu 55% - 60% doanh nghiệp, tổ chức kinh tế thuộc diện kiểm toán”.

Định hướng về phương diện “Cung”, phải đẩy mạnh sự tăng trưởng về số lượng và đa dạng hoá các loại hình DNKiT. Chiến lược kế toán, kiểm toán đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, chỉ rõ, “trong giai đoạn 2012 - 2020 phải tạo điều


kiện thúc đẩy mạnh mẽ, tăng số lượng DNKiT cũng như số lượng KTV. Phấn đấu đến năm 2020 đạt chỉ tiêu 450 doanh nghiệp DNKiT và 5.000 KTV; Trong đó phấn đấu đến năm 2020 có khoảng 30% (gần 2.000 người) có đủ trình độ được quốc tế (ACCA, CPA Australia,…) công nhận”.

Thực tế năm 2020, số lượng DNKiT mới đạt được 198; số lượng KTV có chứng chỉ là 2.519, số KTV hành nghề là 2.311 với 372 KTV có chứng chỉ quốc tế. Thực trạng cho thấy, số lượng DNKiT và KTV chưa đạt được mục tiêu chiến lược đưa ra do vậy để đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế, xu hướng trong giai đoạn tới Nhà nước phải tạo điều kiện thúc đẩy mạnh mẽ để tăng số lượng DNKiT và KTV.

Thứ ba, phát triển và mở rộng KTĐL theo hướng chuyên nghiệp, khuyến khích các DNKiT mở rộng quy mô, tăng cường năng lực cạnh tranh

Tính chuyên nghiệp của KTĐL thể hiện dưới góc độ các thông tin về thị trường và DNKiT ngày càng phải được công khai, minh bạch. Xu hướng các DNKiT buộc phải quan tâm đến việc đánh giá năng lực tài chính, xếp hạng tín nhiệm đồng thời phải công bố rộng rãi khi muốn thực hiện kiểm toán cho các đơn vị có lợi ích công chúng thuộc lĩnh vực chứng khoán.

Phát triển mạnh nguồn nhân lực là xu hướng tất yếu của phát triển KTĐL tại Việt Nam. Quy hoạch phát triển từng loại hình DNKiT theo quy mô lớn, vừa và nhỏ, thực hiện hỗ trợ tăng trưởng và phát triển các DNKiT trong nước với phương châm kỹ thuật và chất lượng dịch vụ phải đạt quốc tế hoá là xu hướng mới trong giai đoạn tới. Các DNKiT sẽ hướng tới cạnh tranh lành mạnh và cạnh tranh về chất lượng dịch vụ, hạn chế cạnh tranh về giá phí dịch vụ.

Chiến lược kế toán, kiểm toán đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, chỉ rõ, “Các DNKiT sẽ mở rộng quy mô, tăng cường năng lực cạnh tranh, theo hướng đảm bảo số nhân viên làm việc trong mỗi DNKiT từ khoảng 30 người trở lên với số lượng KTV ít nhất từ 5 người trở lên. Sau 2020 số DNKiT lớn (trên 50 KTV) đạt 20%, trong đó có 2 - 4 DNKiT trong nước ngang tầm (cả về quy mô, trình độ) với công ty kiểm toán thuộc nhóm Big four; đạt 30% - 40% DNKiT loại vừa (khoảng trên 10 KTV)”

4.1.3 Quan điểm và định hướng hoàn thiện quản lý nhà nước đối với kiểm toán độc lập ở Việt Nam

4.1.3.1 Quan điểm quản lý nhà nước đối với kiểm toán độc lập ở Việt Nam

Quan điểm về vai trò điều tiết của Nhà nước đối với KTĐL

KTĐL là ngành kinh doanh có điều kiện, vì vậy không thể để thị trường tự do điều tiết mà cần phải có vai trò điều tiết và quản lý chặt chẽ của Nhà nước. Do vậy, cần đưa ra quan điểm về những nội dung quản lý và điều tiết của Nhà nước. Quan điểm là Nhà nước thống nhất QLNN đối với KTĐL, các tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán tham gia quản lý hành nghề và kiểm tra, giám sát chất lượng kiểm toán


theo uỷ quyền của Nhà nước. Chính sách và pháp luật đối với KTĐL do Nhà nước ban hành, cơ quan trực thuộc Chính phủ (Bộ Tài chính) tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát. Bên cạnh đó, Nhà nước sẽ cho phép thị trường điều tiết KTĐL thông qua chất lượng dịch vụ kiểm toán.

Quan điểm về xây dựng, ban hành và công bố các chuẩn mực kiểm toán và chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp là phải có sự tham gia của nhiều đối tượng có lợi ích khác nhau trong xã hội. Việc giao cho tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán nghiên cứu và soạn thảo chuẩn mực sẽ dẫn tới việc bảo vệ lợi ích của những người hành nghề hơn là bảo vệ các lợi ích xã hội. Do vậy, xây dựng, ban hành và công bố cần giao cho Ủy ban ban hành chuẩn mực sẽ đạt được sự đảm bảo hợp lý trong mục tiêu, yêu cầu, hướng dẫn áp dụng, các giải thích khác trong từng chuẩn mực.

Quan điểm về tổ chức ộ máy QLNN đối với KTĐL

Để nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan QLNN đối với KTĐL theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại nhằm hạn chế dần sự can thiệp hành chính của Nhà nước, quan điểm là phải tách bạch chức năng quản lý và chức năng giám sát. QLNN đối với KTĐL phải hướng đến năng lực của Nhà nước, trách nhiệm và khả năng ứng phó, mở rộng sự tham gia của các đối tượng trong nền kinh tế. Nhà nước phải tăng cường mức độ công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong thực thi trách nhiệm và thực hiện quyền lực.

Thực hiện kiểm tra chéo KSCL kiểm toán là phù hợp với đặc thù của KTĐL ở Việt Nam và phù hợp với kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới. Trong khi các cơ quan QLNN thiếu các chuyên gia có chuyên môn, nghiệp vụ sâu về KTĐL, đội ngũ cán bộ QLNN không có chứng chỉ hành nghề và kinh nghiệm thực hành kiểm toán thì việc yêu cầu một DNKiT này thực hiện kiểm tra chéo một DNKiT sẽ tháo gỡ việc cơ quan QLNN phải huy KTV của các DNKiT.

Quan điểm về vai trò cho tổ chức nghề nghiệp

Hiện nay hoạt động của VACPA còn hạn chế, chưa thực hiện được đầy đủ chức năng như điều lệ qui định. Quan điểm là, Nhà nước sẽ từng bước chuyển giao trách nhiệm, thẩm quyền cho tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán để phù hợp với thông lệ quốc tế. Chiến lược là nâng cao năng lực và vai trò của tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán hướng tới một tổ chức nghề nghiệp mang tính chuyên nghiệp.

4.1.3.2 Định hướng hoàn thiện quản lý nhà nước đối với kiểm toán độc lập

Thứ nhất, tăng cường mức độ công khai, minh ạch và trách nhiệm giải trình trong thực thi trách nhiệm, thực hiện quyền lực QLNN đối với KTĐL

Việc xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật đối với KTĐL không chỉ quan tâm đến các quy trình, thủ tục, trình tự thực hiện để đạt kết


quả đầu ra mà còn luôn phải đề cao mức độ giải trình và sự phản hồi của các nhóm lợi ích khác nhau trong nền kinh tế. Cơ quan QLNN phải tạo điều kiện để các bên liên quan được tiếp cận thông tin, có quyền trình bày ý kiến, quan điểm khi các chính sách ban hành xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Sự tham gia và phản hồi của các chủ thể trong nền kinh tế trở thành yếu tố then chốt trong trách nhiệm giải trình.

Thứ hai, hệ thống chính sách và pháp luật đối với KTĐL cần đáp ứng yêu cầu thực tiễn quản lý và phù hợp với thông lệ quốc tế

Hệ thống chính sách được xem là nền móng quan trọng để thực thi QLNN đối với KTĐL. Trong thời gian qua, chính sách và pháp luật đối với KTĐL đã tạo ra khung pháp lý có đủ 3 tầng pháp lý (Luật - Chuẩn mực - Chế độ, hướng dẫn) cho KTĐL phát triển. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của thị trường KTĐL và hội nhập kinh tế dẫn đến xu hướng thống nhất quản lý, giám sát của các nước trên thế giới trong một hành lang chung. Do đó, đòi hỏi các chính sách và pháp luật đối với KTĐL phải toàn diện, kịp thời và có sự hợp tác chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý của các nước trong việc tuân thủ các nguyên tắc, chuẩn mực quốc tế.

Xây dựng hệ thống chính sách toàn diện, kịp thời tức là các quy định chưa phù hợp phải được sửa đổi, các quy định còn thiếu sót thì phải được bổ sung để bao quát hết các nội dung cần được quản lý. Bên cạnh đó, những quy định phải hoàn thiện theo hướng phù hợp với thông lệ quốc tế nhưng cần tính tới các điều kiện cần thiết để có thể thực hiện những thay đổi, sửa đổi theo từng giai đoạn phù hợp với điều kiện của Việt Nam.

Việc Việt Nam tham gia vào Cộng đồng Kinh tế ASEAN và Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam – Liên minh Châu Âu sẽ làm tăng nhu cầu hài hòa các quy định cũng như việc tuân thủ các chuẩn mực kế toán và kiểm toán quốc tế. Sự phát triển của thị trường KTĐL ở Việt Nam sẽ phụ thuộc vào mức độ sẵn sàng và khả năng tham gia tích cực của Việt Nam trong các quá trình thay đổi này.

Một hệ thống chính sách toàn diện, kịp thời và phù hợp với điều kiện Việt Nam và hội nhập với quốc tế cần phải được quản lý thực hiện một cách đúng đắn để hiện thực hoá các quy định thành hành động. Những chế tài được xây dựng nhằm răn đe, phòng ngừa cũng như khắc phục những sai phạm. Nếu đạt được những định hướng trên thì sẽ tạo ra một hành lang pháp lý quan trọng và căn bản cho KTĐL ở Việt nam phát triển.

Thứ a, cần gắn hoạt động giám sát tuân thủ với giám sát chất lượng chuyên môn

Hiện nay, kiểm tra, giám sát KTĐL mới chỉ dừng lại ở việc kiểm tra tính tuân thủ pháp luật, nội dung giám sát chất lượng chuyên môn nghiệp vụ còn rất hạn hẹp. Cách thức kiểm tra, giám sát việc tuân thủ chỉ giúp đưa ra những kết luận phục vụ


cho việc xử lý sai phạm của các DNKiT và KTV hành nghề, không giúp cảnh báo sớm các nguy cơ xảy ra rủi ro để đề xuất và yêu cầu DNKiT và KTV thực hiện các giải pháp phòng ngừa nhằm hạn chế những đỗ vỡ của nền kinh tế. Hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, định hướng QLNN đối với KTĐL phải hướng tới là kiểm tra, giám sát tuân thủ kết hợp với giám sát chất lượng chuyên môn, kịp thời phát hiện rủi ro tiềm ẩn nhằm đưa ra hệ thống chỉ tiêu cảnh báo sớm cho DNKiT, KTV và cơ quan quản lý.

4.2 Giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với kiểm toán độc lập ở Việt Nam đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2030

4.2.1 Nhóm giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp lý đối với kiểm toán độc lập

4.2.1.1 Xây dựng chiến lược kiểm toán độc lập đến 2030, tầm nhìn 2035

Căn cứ đề xuất:

Thực tế cho thấy, chiến lược kế toán - kiểm toán đến năm 2020, tầm nhìn 2030 là chiến lược nhánh nằm trong chiến lược Tài chính đến năm 2020. Chiến lược được xây dựng chung cho cả lĩnh vực kế toán và kiểm toán và được xây dựng từ năm 2013 nên nhiều giải pháp của chiến lược không còn phù hợp với mục tiêu phát triển mới của nền kinh tế và không đáp ứng được mục tiêu mở rộng và phát triển KTĐL. Do đó, cần thiết phải xây dựng chiến lược KTĐL riêng nhằm hoạch định các chính sách về mở rộng và phát triển KTĐL.

Kết quả từ phương pháp tích hợp Kano-IPA cho thấy, yếu tố HQ1 (Chính sách, pháp luật đối với KTĐL đáp ứng yêu cầu và mục tiêu QLNN), được các đáp viên đánh giá có mức độ rất quan trọng trong QLNN đối với KTĐL với điểm trung bình là 4.4502, nhưng mức độ thực hiện được đánh giá trong thực tế thấp với điểm trung bình là 2.9501. Độ khác biệt giữa mức độ quan trọng và mức độ thực hiện của yếu tố này là 1.500. Điều đó cho thấy, Nhà nước phải đầu tư nguồn lực cho việc xây dựng các chính sách để đáp ứng yêu cầu QLNN và phát triển KTĐL.

Bài học rút ra từ kinh nghiệm của các quốc gia là chiến lược KTĐL cần được xây dựng riêng nhằm xác định quan điểm, tầm nhìn, mục tiêu phát triển KTĐL và sự nhất quán về con đường, các giải pháp cơ bản để thực hiện chiến lược.

Nội dung giải pháp:

Bộ Tài chính cần đánh giá, tổng kết tình hình thực hiện Chiến lược kế toán, kiểm toán giai đoạn 2011 – 2020 và đề xuất các giải pháp có tính chiến lược, làm căn cứ xây dựng Chiến lược KTĐL giai đoạn 2021 - 2030, với tầm nhìn xa và rộng hơn, đến năm 2035.


Chiến lược KTĐL đến 2030, tầm nhìn 2035 phải gắn với các mục tiêu mang tính định hướng lâu dài của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và chiến lược tài chính để đạt được mục tiêu quản lý tổng thể nền kinh tế. Định hướng và nội dung Chiến lược KTĐL đến 2030, tầm nhìn 2035 bao gồm:

Phát triển mạnh nguồn nhân lực KTĐL; Phát triển và mở rộng thị trường KTĐL;

Quy hoạch, phát triển từng loại hình DNKiT theo quy mô lớn, vừa và nhỏ;

Ưu tiên phát triển các DNKiT lớn hợp danh với các DNKiT nước ngoài hướng tới có 10 DNKiT nội địa lớn có thể tạo ra mạng lưới dịch vụ toàn cầu nhằm cạnh tranh với DNKiT Big 4.

Xây dựng ngân hàng dữ liệu để quản lý và giám sát hành nghề KTĐL; kết nối thông tin giữa các cơ quan quản lý, giám sát kế toán, kiểm toán, thị trường chứng khoán; đảm bảo việc công bố thông tin minh bạch, kịp thời cho thị trường về các DNKiT cũng như đội ngũ KTV hành nghề.

Bộ Tài chính phải chủ trì và trực tiếp triển khai các nội dung chính của chiến lược KTĐL, cụ thể hóa nội dung chiến lược theo từng giai đoạn và phối hợp hoạt động với các cơ quan QLNN có liên quan.

4.2.1.2 Hoàn thiện các văn bản pháp luật đối với kiểm toán độc lập

Ban hành Luật kế toán viên công chứng (Luật CPA)

Căn cứ đề xuất:

Thực trạng QLNN cho thấy, Luật Kiểm toán độc lập đang có phạm vi quy định quá rộng, những nội dung liên quan đến KTV hành nghề (vai trò, quyền, nghĩa vụ của KTV hành nghề), cần được tách riêng trong Luật Kế toán viên công chứng (Luật CPA) để đáp ứng yêu cầu QLNN đối với KTĐL và phù hợp với thông lệ quốc tế. Luật CPA, nhằm tăng cường quản lý hoạt động của những người thực hiện cung cấp dịch vụ kiểm toán, tư vấn kiểm toán và các dịch vụ kế toán, đồng thời, bảo vệ quyền và lợi ích của cộng đồng cũng như quyền lợi hợp pháp của các nhà đầu tư nhằm thúc đẩy sự phát triển lành mạnh của các doanh nghiệp và phát triển nền kinh tế quốc gia.

Theo kết quả từ phương pháp tích hợp Kano-IPA, yếu tố PH1 (Chính sách và pháp luật đối với KTĐL phù hợp với thông lệ quốc tế và được các tổ chức quốc tế đánh giá cao), được các đáp viên đánh giá có mức độ rất quan trọng trong QLNN đối với KTĐL với điểm trung bình là 4.6509, nhưng mức độ thực hiện được đánh giá trong thực tế thấp với điểm trung bình là 2.5921. Độ khác biệt giữa mức độ

Xem tất cả 218 trang.

Ngày đăng: 02/04/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí