Phân Tích Thực Trạng Quản Lý Nhà Nước Đối Với Kiểm Toán Độc Lập Ở Việt Nam


kinh tế. Chất lượng kiểm toán giữa các DNKiT vẫn chưa đồng đều, còn có sự chênh lệch khá lớn. Nhiều DNKiT có chất lượng kiểm toán đạt tiêu chuẩn quốc tế, tuy nhiên cũng còn nhiều DNKiT chưa đảm bảo chất lượng kiểm toán, thiếu cấp bậc soát xét, số lượng KTV có chứng chỉ chỉ đạt mức yêu cầu tối thiểu. Một số DNKiT giám đốc chưa có đủ kinh nghiệm, kỹ năng và năng lực nghề nghiệp nên chất lượng dịch vụ kiểm toán cung cấp chưa đạt yêu cầu. Năng lực, trình độ và đạo đức nghề nghiệp của KTV là yếu tố mang tính quyết định ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán. Thực tế hiện nay, trình độ KTV trực tiếp thực hiện hợp đồng kiểm toán chưa hiểu sâu về lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh của đơn vị được kiểm toán, dẫn đến những sai sót nghề nghiệp và nhiều sai phạm sảy ra. Tình trạng cạnh tranh không lành mạnh về giảm giá phí dẫn đến chất lượng kiểm toán không đảm bảo ngày càng gia tăng. Điều này cho thấy còn rất khó khăn để KTĐL ở Việt nam được khu vực và quốc tế thừa nhận. Do vây, đòi hỏi cơ quan QLNN, Hội nghề nghiệp và DNKiT phải tăng cường quản lý và kiểm soát và nâng cao chất lượng kiểm toán đáp ứng kỳ vọng của các đối tượng sử dụng thông tin tài chính trong nền kinh tế.

3.1.2.6 Hội nhập quốc tế

Trong những năm qua, Việt Nam đã tạo được mối quan hệ với các tổ chức quốc tế và hiện đang là thành viên của Liên đoàn quốc tế (IFAC), Liên đoàn kế toán châu Á Thái Bình Dương (AFA). Việt nam đã tham gia vào đoàn đàm phán ký thoả thuận trong các Hiệp định WTO, Hiệp định với khối ASEAN về phát triển thị trường tài chính, thị trường dịch vụ, các phương thức cung cấp dịch vụ kế toán, kiểm toán và thừa nhận lẫn nhau về nghề nghiệp kế toán, kiểm toán. Bên cạnh đó, các DNKiT Việt nam đã tích cực tham gia vào các mạng lưới, thành viên của các hãng kiểm toán quốc tế để được tiếp thu nhiều công nghệ kiểm toán hiện đại thông qua các chương trình đào tạo và huấn luyện của hãng và có điều kiện cận các khách hàng có vốn đầu tư nước ngoài.

Lịch sử đã chứng minh trong nền kinh tế thị trường, KTĐL không thể phát triển một cách tự phát và không thể thiếu sự can thiệp, hỗ trợ của Nhà nước. Trong 30 năm qua, với các phương thức quản lý và công cụ quản lý của Nhà nước, KTĐL ở Việt nam đã dần khẳng định được vị thế và uy tín trong nền kinh tế. Tính chất hoạt động được chuyển biến tích cực từ thực hiện kiểm toán theo luật định sang thực hiện dịch vụ. Định hướng trong giai đoạn mới, các DNKiT phải hướng tới cạnh tranh lành mạnh và cạnh tranh về chất lượng dịch vụ, hạn chế và loại bỏ dần hình thức cạnh tranh giảm giá phí dịch vụ ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ kiểm toán. Để đạt được mục tiêu, định hướng này, đòi hỏi cần có sự quản lý và hỗ trợ của Nhà nước đối với KTĐL ở Việt Nam.


3.2 Phân tích thực trạng quản lý nhà nước đối với kiểm toán độc lập ở Việt Nam

3.2.1 Xây dựng hệ thống pháp lý đối với kiểm toán độc lập

Trong 30 năm qua hệ thống pháp lý làm cơ sở cho QLNN đối với KTĐL đã từng bước được hoàn thiện. Căn cứ vào nội dung xây dựng, ban hành chính sách và pháp luật đối với KTĐL có thể hệ thống hóa theo 3 giai đoạn sau:

3.2.1.1 Giai đoạn từ năm 1991 đến năm 1998

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 218 trang tài liệu này.

Đây là giai đoạn đầu tiên của quá trình xây dựng và hình thành các khuôn khổ pháp lý đối với KTĐL ở Việt Nam. Trong giai đoạn này, Chính phủ ban hành 01 Nghị định (NĐ 07-CP); Bộ Tài chính ban hành 01 Thông tư (TT 22-TC/CĐKT) và 01 Quyết định (QĐ 237/TC/QĐ/CĐKT) (Phụ lục số 11). Các chính sách và pháp luật đối với KTĐL trong giai đoạn này còn rất sơ khai. Các chuẩn mực kiểm toán, chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp nhằm tăng cường tính minh bạch và giảm nhẹ rủi ro cho nền kinh tế đều chưa được xây dựng và ban hành. Các thông lệ và chuẩn mực quốc tế về KTĐL giai đoạn này chủ yếu được Bộ Tài chính tự biên dịch và hướng dẫn vận dụng theo.

Đến những năm cuối thập kỷ 90 của thế kỷ XX với xu thế mở cửa, nền kinh tế Việt Nam đứng trước yêu cầu phải kiểm soát các hoạt động đầu tư nước ngoài vào trong nước. KTĐL cần cải cách để hội nhập sâu rộng và phải được quản lý, kiểm soát chặt chẽ nhằm đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của nền kinh tế. Chính phủ nhận thấy cần phải giao cho Bộ Tài chính nghiên cứu và chuẩn bị các điều kiện để soạn thảo và ban hành hệ thống chuẩn mực kiểm toán Việt Nam (VSA). Bắt đầu từ đây đánh dấu giai đoạn chuyển biến quan trọng trong quản lý, giám sát của Nhà nước đối với KTĐL ở Việt nam.

Quản lý nhà nước đối với kiểm toán độc lập ở Việt Nam - 12

3.2.1.2 Giai đoạn từ năm 1999 đến năm 2010

Trong giai đoạn này, Nhà nước đã không ngừng bổ sung và hoàn thiện khung pháp lý về KTĐL, đặc biệt là các chính sách về KSCL kiểm toán. Hàng loạt các văn bản pháp luật được ban hành để điều chỉnh và khắc phục những thiếu sót của các văn bản trước đó. Giai đoạn từ năm 1999 đến năm 2010, chính phủ đã ban hành 03 Nghị đinh, 02 Thông tư và nhiều Quyết định quan trọng nhằm điều chỉnh và quản lý, kiểm soát KTĐL. Đây là giai đoạn Nhà nước tập trung nhiều nhất cho việc ban hành hệ thống chính sách và pháp luật đối với KTĐL (Phụ lục số 12). Nội dung cơ bản của các văn bản quy phạm pháp luật về KTĐL trong giai đoạn này bao gồm:

Các văn bản quy định về chức năng, nhiệm vụ của cơ quan QLNN; Các văn bản quy định về điều kiện kinh doanh đối với DNKiT;


Các văn bản quy định tiêu chuẩn, điều kiện đối với DNKiT, KTV hành nghề được chấp thuận kiểm toán cho đơn vị có lợi ích công chúng;

Các văn bản quy định về thi tuyển và cấp chứng chỉ KTV và chứng chỉ hành nghề kế toán;

Các văn bản về quy chế kiểm soát chất lượng dịch vụ kế toán, kiểm toán;

Các văn bản về chuyển giao cho Hội nghề nghiệp thực hiện một số nội dung công việc quản lý hành nghề kế toán, kiểm toán.

Các chính sách và pháp luật trong giai đoạn 1999 - 2010 chỉ là các văn bản dưới luật bao gồm Nghị định, Thông tư và Quyết định. Thực tế cho thấy, chính sách và pháp luật trong giai đoạn này chưa đầy đủ, chưa tương xứng với vai trò, vị trí của KTĐL trong nền kinh tế. Một số quy định trong chính sách còn thiếu so với thông lệ quốc tế và đòi hỏi của thị trường Việt Nam. Chính sách về xử phạt vi phạm hành chính đối với KTV và DNKiT chưa được ban hành. Chính sách chuyển giao quản lý hành nghề cho hội nghề nghiệp chưa thực sự phù hợp với sự trưởng thành và phát triển về năng lực chuyên môn, đội ngũ quản lý của hội nghề nghiệp. Thực trạng này đã ảnh hưởng tới tính hiệu lực, hiệu quả của của hệ thống chính sách và pháp luật đối với KTĐL. Để giải quyết những vướng mắc phát sinh trong thực tiễn và khắc phục những hạn chế của hệ thống chính sách và pháp luật đòi hỏi phải ban hành Luật KTĐL nhằm điều chỉnh đối tượng, phạm vi, quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của các DNKiT và KTV, tổ chức nghề nghiệp, cơ quan QLNN cũng như các đối tượng được kiểm toán một cách đầy đủ, toàn diện đáp ứng xu thế hội nhập và thực hiện hiệu quả các cam kết quốc tế nhằm tăng cường vai trò của KTĐL trong nền kinh tế.

3.2.1.3.Giai đoạn từ năm 2011 đến nay

Về hình thức iểu hiện chính sách và pháp luật:

Chính sách QLNN được cụ thể hoá thông qua hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật nhằm tạo hành lang pháp lý cho KTĐL phát triển. Quá trình xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật luôn tuân thủ các quy định của pháp luật về thủ tục xây dựng, ban hành đúng thẩm quyền do pháp luật quy định trong đó bao gồm cả việc đăng website lấy ý kiến rộng rãi. Các văn bản quy phạm pháp về cơ bản được cấu trúc chặt chẽ, logic. Các chương, điều, khoản được sắp xếp hợp lý; các bộ phận trong văn bản không bị mâu thuẫn.

Về nội dung chính sách và pháp luật:

Dấu mốc quan trọng nhất của giai đoạn này là Quốc hội thông qua Luật KTĐL quy định nguyên tắc, điều kiện, phạm vi, hình thức hoạt động KTĐL; quyền, nghĩa vụ của KTV hành nghề, DNKiT, chi nhánh DNKiT nước ngoài tại Việt Nam


và đơn vị được kiểm toán. Luật KTĐL đã tạo hành lang pháp lý cao nhất và cải cách căn bản khung pháp lý cho KTĐL ở Việt Nam.

Sau 10 năm thực hiện, Luật KTĐL đang bộc lộ nhiều bất cập cần được sửa đổi để đáp ứng những thay đổi trong hoạt động KTĐL. Luật có phạm vi quy định quá rộng từ việc quy định nguyên tắc, điều kiện, phạm vi, hình thức hoạt động KTĐL đến vai trò và nghĩa vụ của KTV hành nghề, DNKiT, cũng như các quy định chi tiết về trình độ của KTV, hình thức và nội dung của báo cáo kiểm toán và quy trình KSCL. Ngoài ra, Luật KTĐL và pháp luật có liên quan còn quy định các doanh nghiệp và tổ chức nào phải kiểm toán BCTC. Nhiều nội dung trong luật (các quy định về hợp đồng kiểm toán, phí kiểm toán, tài liệu kiểm toán, KSCL và hình thức và nội dung của ý kiến kiểm toán ), quy định quá chi tiết, cụ thể, cứng nhắc dẫn đến việc cập nhật chuẩn mực kiểm toán và hướng dẫn chi tiết phải phụ thuộc vào nội dung thay đổi luật.

Trong giai đoạn 2011 - 2020, nhằm tăng cường hơn nữa vai trò của QLNN đối với kế toán, kiểm toán và phù hợp với yêu cầu của Luật Kế toán và Luật KTĐL, Bộ Tài chính đã xây dựng “Chiến lược kế toán, kiểm toán đến năm 2020, tầm nhìn 2030” và Chính phủ đã phê duyệt theo Quyết định số 480/QĐ-TTg/2013. Chiến lược kế toán, kiểm toán là một trong 9 chiến lược nhánh của Chiến lược Tài chính đến năm 2020, có vai trò quan trọng trong điều tiết và phát triển nền kinh tế. Mục tiêu của Chiến lược kế toán, kiểm toán đến năm 2020, tầm nhìn 2030, (i) Tạo lập hệ thống kế toán, kiểm toán hoàn chỉnh;( ii) Xây dựng hệ thống khuôn khổ pháp lý kế toán, kiểm toán phù hợp với thông lệ quốc tế; (iii) Nâng cao vai trò QLNN về kế toán, kiểm toán, đẩy mạnh giám sát hoạt động kế toán, kiểm toán, giám sát thực thi pháp luật hoạt động kế toán - kiểm toán cũng như hoạt động hành nghề kế toán - kiểm toán; (iv) Phát triển mạnh nguồn nhân lực trong kế toán, kiểm toán ngang tầm với các nước phát triển trong khu vực về cả số lượng và chất lượng; (v) Tăng cường quan hệ hợp tác và thừa nhận lẫn nhau trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán với các tổ chức quốc tế về kế toán, kiểm toán trong khu vực và thế giới. Chiến lược kế toán, kiểm toán đặt ra yêu cầu phải thiết lập một hệ thống các giải pháp đồng bộ với 9 nội dung quan trọng để phát triển hoạt động kế toán, kiểm toán phù hợp với nền kinh tế thị trường đang phát triển của Việt Nam và các thông lệ quốc tế: (i) Hoàn thiện các văn bản pháp luật về kế toán, kiểm toán; (ii) Xây dựng, ban hành chuẩn mực kế toán và kiểm toán của Việt Nam phù hợp với thông lệ quốc tế và điều kiện của Việt Nam; (iii) Phát triển thị trường dịch vụ kiểm toán, kế toán; (iv)Tăng cường kiểm tra, giám sát thực thi pháp luật, chuẩn mực kế toán và kiểm toán; (v) Củng cố tổ chức bộ máy cơ quan QLNN về kế toán, kiểm


toán; (vi) Đẩy mạnh sự phát triển các tổ chức nghề nghiệp trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán trong nước trở thành tổ chức tự quản; (vii) Tăng cường mở rộng quan hệ, hợp tác quốc tế, nâng cao vị thế của kế toán, kiểm toán Việt Nam; (viii) Phát triển nguồn nhân lực; (ix) Xây dựng hệ thống thông tin đáp ứng yêu cầu quản lý.

Sau gần 10 năm thực hiện Chiến lược kế toán, kiểm toán đã hoàn thiện thêm một bước khuôn khổ pháp lý về kế toán, kiểm toán đáp ứng được cơ bản yêu cầu quản lý, tạo điều kiện minh bạch thông tin kinh tế, tài chính phục vụ thương mại và đầu tư; đã tích cực, chủ động trong hội nhập quốc tế, góp phần phát triển thị trường dịch vụ kiểm toán, kế toán. Song thực tiễn cũng cho thấy, chiến lược kế toán, kiểm toán đến năm 2020, tầm nhìn 2030 được xây dựng chung cho cả lĩnh vực kế toán và kiểm toán và xây dựng từ năm 2013 nên nhiều giải pháp của chiến lược không còn phù hợp với mục tiêu phát triển mới của nền kinh tế và không đáp ứng được mục tiêu mở rộng và phát triển KTĐL. Thực tế đòi hỏi cần phải xây dựng chiến lược KTĐL riêng cho giai đoạn 2021 - 2030, với tầm nhìn xa và rộng hơn, nhằm hoạch định các chính sách để mở rộng và phát triển KTĐL.

Tại Việt nam, hệ thống chuẩn mực kiểm toán và chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán được coi là hệ thống văn bản pháp luật. Bộ Tài chính đã ra nhiều Thông tư (Phụ lục số 14), ban hành 47 chuẩn mực kiểm toán. Quốc hội (Luật KTĐL, 2011) quy định, “chuẩn mực kiểm toán là những quy định và hướng dẫn về yêu cầu, nguyên tắc, thủ tục kiểm toán và xử lý các mối quan hệ phát sinh trong hoạt động kiểm toán mà thành viên tham gia cuộc kiểm toán và DNKiT, chi nhánh DNKiT nước ngoài tại Việt Nam phải tuân thủ. Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán là những quy định và hướng dẫn về nguyên tắc, nội dung áp dụng các tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp đối với thành viên tham gia cuộc kiểm toán và DNKiT, chi nhánh DNKiT nước ngoài tại Việt Nam. Chuẩn mực kiểm toán và chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán là cơ sở để kiểm tra, đánh giá chất lượng kiểm toán và đạo đức nghề nghiệp của thành viên tham gia cuộc kiểm toán và DNKiT, chi nhánh DNKiT tại Việt Nam”.

VACPA được Bộ Tài chính ủy quyền thực hiện nghiên cứu, soạn thảo, cập nhật hệ thống chuẩn mực kiểm toán Việt Nam trên cơ sở chuẩn mực kiểm toán quốc tế và trình Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành. Việc giao cho tổ chức nghề nghiệp nghiên cứu, soạn thảo chuẩn mực nghề nghiệp sẽ dẫn tới việc bảo vệ lợi ích của những người hành nghề được ưu tiên hơn là bảo vệ lợi ích của xã hội. Thực tế này đòi hỏi cần phải có những thay đổi và nên có một Uỷ ban Chuẩn mực kế toán, kiểm toán (thay thế Ban soạn thảo hiện nay) làm cơ quan thường trực để theo dõi, giám sát


thường xuyên việc thực thi chuẩn mực kế toán, kiểm toán, tổ chức nghiên cứu, cập nhật cho phù hợp với những thay đổi của chuẩn mực quốc tế và làm đại diện cho Việt Nam tham gia các diễn đàn trao đổi về kế toán, kiểm toán trong khu vực và quốc tế đồng thời là cầu nối để trao đổi, quan hệ hợp tác.

Giai đoạn từ năm 2011 đến nay, Chính phủ đã ban hành 06 Nghị đinh và 19 Thông tư và nhiều Quyết định quan trọng nhằm điều chỉnh và quản lý KTĐL (Phụ lục số 13). Hệ thống văn bản pháp luật đối với KTĐL trong giai đoạn này bao gồm:

Các văn bản quy định hướng dẫn thi hành một số điều của Luật KTĐL; Các văn bản quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực KTĐL

Các văn bản quy định về ban hành chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán và chuẩn mực kiểm toán Việt Nam;

Các văn bản quy định tiêu chuẩn điều kiện đối với KTV hành nghề, tổ chức kiểm toán được chấp thuận kiểm toán cho đơn vị có lợi ích công chúng;

Các văn bản quy định về thi và cấp chứng chỉ KTV và chứng chỉ hành nghề kế toán; cập nhật kiến thức hàng năm cho kiểm toán viên đăng ký hành nghề kiểm toán;

Các văn bản quy định về đăng ký, quản lý và công khai danh sách kiểm toán viên hành nghề; trình tự, thủ tục cấp, quản lý, sử dụng Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kiểm toán; …

Hệ thống pháp lý đối với KTĐL trong giai đoạn từ năm 2011 đến nay đã có những đổi mới, hoàn thiện căn bản, tạo ra khung pháp lý có đủ 3 tầng pháp lý (Luật

- Chuẩn mực - Chế độ, hướng dẫn). Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành tương đối đầy đủ, kịp thời, đảm bảo chất lượng, tạo cơ sở pháp lý cho việc triển khai thực hiện pháp luật đối với KTĐL và đáp ứng phần nào các yêu cầu đặt ra. Các chính sách và pháp luật đối với KTĐL đã đảm bảo tương đối thống nhất giữa các văn bản quy phạm pháp luật, tạo khung pháp lý và kịp thời giải quyết những khó khăn, vướng mắc phát sinh trong quá trình cung cấp dịch vụ của các DNKiT. Hệ thống các văn bản hướng dẫn cũng được ban hành tương đối kịp thời và có những sửa đổi, hoàn thiện đáp ứng phần nào những đòi hỏi trong thực tiễn quản lý.

Song so với sự phát triển của nền kinh tế và sự phát triển của KTĐL, hệ thống pháp lý chưa thật sự hoàn chỉnh, đồng bộ và chưa cập nhật đầy đủ, kịp thời những thay đổi của thông lệ quốc tế. Các văn bản quy phạm pháp luật mới chỉ dừng lại ở việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực KTĐL, chưa có các văn bản xử phạt vi phạm chất lượng dịch vụ kiểm toán. Các văn bản xử phạt vi phạm hành chính được ban hành và sửa đổi bổ sung quá nhiều nên chưa đảm bảo tính phù hợp và bền vững. Các văn bản hướng dẫn chưa cụ thể, hình thức xử phạt còn quá nặng, mức xử phạt chưa thực sự phù hợp, chế tài xử phạt còn nhẹ chưa đủ sức răn đe dẫn


đến khâu thực hiện còn hạn chế. Các văn bản quy phạm pháp luật về quy trình chấp thuận kiểm toán cho đơn vị có lợi ích công chúng chưa dựa vào năng lực, nguồn lực của DNKiT, chưa đánh giá các quy định điều kiện về đảm bảo chất lượng dịch vụ kiểm toán, điều kiện DNKiT phải duy trì và vận hành hệ thống KSCL có hiệu quả. Các văn bản quy phạm pháp luật quy định quá cao, quá chặt chẽ về điều kiện vốn và số lượng KTV, số năm hoạt động của DNKiT, số lượng khách hàng tối thiểu nên các DNKiT khó đáp ứng được trong thực tế triển khai, dẫn đến phát sinh nhiều tiêu cực và cạnh tranh không lành mạnh khi thực hiện quy chế lựa chọn DNKiT được chấp thuận kiểm toán cho đơn vị có lợi ích công chúng. So với sự thay đổi của thông lệ quốc tế thì hệ thống pháp lý đối với KTĐL trong giai đoạn này chưa thật sự hoàn chỉnh, đồng bộ và chưa cập nhật đầy đủ, kịp thời.

3.2.2 Tổ chức thực hiện chính sách và pháp luật đối với KTĐL

3.2.2.1 Mô hình quản lý kiểm toán độc lập ở Việt nam

Tại Việt nam, Nhà nước thống nhất quản lý KTĐL theo luật định. Mô hình quản lý KTĐL đã trải qua 2 giai đoạn sau:

Giai đoạn từ năm 1991-2005

Đây là giai đoạn KTĐL bắt đầu hình thành và hoạt động ở Việt Nam. Trong giai đoạn này, để phù hợp với thể chế chính trị và tính hiệu lực tối cao của các cơ quan QLNN, Chính phủ giao cho Bộ Tài Chính là cơ quan QLNN chịu trách nhiệm quản lý và giám sát KTĐL ở Việt Nam.

Giai đoạn từ sau năm 2005 đến nay

Dấu mốc quan trọng nhất của giai đoạn này là Quyết định số 47/2005/QĐ-BTC, chuyển giao một số nội dung liên quan đến quản lý nghề nghiệp cho Hội KTV hành nghề Việt Nam (VACPA). Bắt đầu từ đây, QLNN đối với KTĐL ở Việt Nam được thực hiện theo mô hình luật định kết hợp với tổ chức nghề nghiệp trong quản lý hành nghề. Nội dung Bộ Tài chính chuyển giao cho VACPA bao gồm: (1) Bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ và cập nhật kiến thức cho KTV hành nghề; (2) Quản lý danh sách KTV hành nghề, danh sách DNKiT; (3) Xem xét điều kiện và công khai danh sách KTV hành nghề, danh sách DNKiT đủ điều kiện hành nghề; (4) Kiểm tra tuân thủ pháp luật về kiểm toán, chất lượng dịch vụ trong các DNKiT và hoạt động nghề nghiệp của KTV hành nghề báo cáo với Bộ Tài chính.

Thực tế cho thấy, nội dung cập nhật kiến thức và kiểm soát hoạt động hành nghề ngày càng có khối lượng lớn và phức tạp, đòi hỏi phải phù hợp với thực tế và thông lệ quốc tế. Trong khi đó, cơ quan QLNN không thể tăng biên chế bộ máy hành chính và năng lực, kiến thức của cán bộ QLNN về KTĐL hạn chế và không có


chứng chỉ hành nghề. Việc chuyển giao một số nội dung quản lý hành nghề cho VACPA là phù hợp với xu hướng hội nhập và giảm nhẹ các thủ tục hành chính cho các cơ quan QLNN. Với đặc thù QLNN đối với KTĐL ở Việt nam luôn nặng về tính điển luật hơn so với các xét đoán mang nghề nghiệp và năng lực thực tế của VACPA chưa cao nên việc chuyển giao hạn chế các nội dung quản lý cho VACPA là phù hợp với thực tế tại Việt nam. QLNN đối với KTĐL ở Việt Nam theo mô hình luật định có sự kết hợp với tổ chức nghề nghiệp trong quản lý hành nghề là phù hợp với thực tế phát triển của KTĐL và năng lực của tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán tại Việt nam. Song, khi vai trò của tổ chức nghề nghiệp bị thu hẹp thì việc giám sát chất lượng dịch vụ kiểm toán và đạo đức của KTV sẽ mang nặng tính hình thức, thủ tục hành chính và khó phát huy được hiệu quả hoạt động của tổ chức nghề nghiệp.

3.2.2.2 Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với kiểm toán độc lập

Bộ máy QLNN đối với KTĐL là một bộ phận cấu thành của bộ máy nhà nước và mang tính độc lập tương đối. Bộ máy QLNN đối với KTĐL bao gồm: hệ thống các cơ quan QLNN và cơ chế phối hợp hoạt động giữa các cơ quan.

MÔ HÌNH TỔ CHỨC BỘ MÁY QLNN ĐỐI VỚI KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP


(1)

(2)

(6)

(3)

(4)

(5)

Quốc hội

Chính phủ

UBND tỉnh, thành phố

Bộ và cơ quan ngang Bộ

(9)

(11)

Bộ Tài chính

(7)


UBCKNN

(8)

Cục Quản lý, giám sát kế toán, kiểm toán

Doanh nghiệp kiểm toán Kiểm toán viên

Sở an ngành địa

(10) (12)


Sơ đồ 3.1: Mô hình tổ chức ộ máy QLNN đối với KTĐL

(Nguồn : Tác giả tự tổng hợp)

Xem tất cả 218 trang.

Ngày đăng: 02/04/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí