Kinh Nghiệm Quản Lý Nhà Nước Đối Với Kiểm Toán Độc Lập Ở Trung Quốc


doanh nghiệp - Accounting and Corporate Regulatory Authority – ACRA, có trách nhiệm hỗ trợ quản lý, giám sát, hướng dẫn và rà soát các chuẩn mực kiểm toán, phương thức và quy trình kế toán áp dụng đối với các kế toán viên công chứng khi thực hiện cung cấp dịch vụ kế toán công, kiểm toán và lập BCTC. Hội kế toán công chứng Singapore (ICPAS) là tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán được hình thành trên cơ sở tự nguyện.

Kiểm tra, giám sát kiểm toán độc lập

Chủ thể và hình thức kiểm tra, giám sát

Tại Singapore, chủ thể thực hiện kiểm soát, điều tra và đề xuất kỷ luật về các sai phạm của DNKiT và KTV hành nghề là Hội đồng giám sát kế toán viên công chứng (The Public Accountants Oversight Committee - PAOC). Cơ quan quản lý KTV và doanh nghiệp hàng năm tổ chức Chương trình giám sát thực tế (Practice Monitoring Programme – PMP) để kiểm tra chất lượng kiểm toán dựa trên kết quả đánh giá về việc tuân thủ các chuẩn mực kiểm toán Singapore (Singapore Standards on Auditing – SSA) và các quy định khác. Chương trình giám sát thực tế thực hiện theo hai hình thức kiểm tra: kiểm tra DNKiT và kiểm tra cuộc kiểm toán. ACRA thực hiện kiểm tra các DNKiT và cuộc kiểm toán cho các công ty niêm yết; ISCA thực hiện kiểm tra cấp độ cuộc kiểm toán cho các công ty không niêm yết. Việc phân bổ này sẽ giúp ACRA tập trung nguồn lực vào việc kiểm toán ảnh hưởng đến lợi ích công chúng nhiều hơn. Để KSCL chất lượng kiểm toán, ACRA sẽ kiểm tra, giám sát thông qua Bộ chỉ số chất lượng kiểm toán.

Công khai, minh bạch kết quả kiểm tra

Với nguyên tắc Chính phủ mở, Singapore là quốc gia thực hiện công khai, minh bạch thông tin. Bộ Tài chính Singapore xây dựng ngân hàng dữ liệu để công khai thông tin về hành nghề kế toán, kiểm toán, công bố công khai kết quả kiểm tra và sai phạm của các DNKiT và KTV hành nghề. Nhờ công khai và minh bạch trong kiểm soát, Singapore trở thành quốc gia có có hệ thống kiểm soát chất lượng kiểm toán chặt chẽ, các phương tiện quản lý hiệu quả nên phòng ngừa một cách hữu hiệu tham nhũng, đảm bảo trách nhiệm giải trình trong thi hành chính sách và pháp luật về KTĐL.

Thực hiện kiểm soát toàn diện, xây dựng KTĐL có năng lực và phát triển bền vững, Singapore áp dụng chế tài xử phạt mạnh cả về kinh tế, hành chính và pháp luật đối với những sai phạm trong quản lý, sai phạm của các DNKiT và KTV hành nghề.

2.4.1.3 Kinh nghiệm quản lý nhà nước đối với kiểm toán độc lập ở Trung quốc

Hệ thống pháp lý đối với KTĐL

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 218 trang tài liệu này.

Nhà nước Trung Quốc bằng quyền lực chính trị của mình xây dựng hệ thống pháp lý vững chắc, toàn diện cho KTĐL. Chiến lược KTĐL riêng biệt gắn kết với


Quản lý nhà nước đối với kiểm toán độc lập ở Việt Nam - 10

các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Mục tiêu chiến lược KTĐL được Nhà nước đưa ra là: tăng trưởng và phát triển của các DNKiT trong nước với phương châm kỹ thuật và chất lượng kiểm toán phải đạt quốc tế hoá, ưu tiên phát triển các DNKiT lớn của Trung Quốc và mở cửa cho các hãng kiểm toán nước ngoài đào tạo, hướng dẫn, tư vấn cho người Trung Quốc điều hành công việc nhưng không khuyến khích người nước ngoài tham gia vào quản lý các DNKiT của Trung Quốc.

Từ năm 1980, với chính sách cải cách mở cửa và thiết lập nền kinh tế thị trường XHCN, Trung Quốc đã tăng cường sửa đổi hệ thống luật pháp tạo khuôn khổ pháp lý cho công cuộc cải cách và hiện đại hóa. Để tạo lập khuôn khổ pháp luật cho KTĐL phát triển, Nhà nước đưa ra nhiều chính sách khuyến khích các đơn vị, tổ chức sử dụng dịch vụ KTĐL. Để tạo lập khuôn khổ pháp luật, Trung Quốc đã ban hành Luật KTĐL. Năm 1993, Luật Kế toán viên công chứng được ban hành để điều chỉnh hoạt động của CICPA. Hệ thống chuẩn mực kiểm toán, chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp được Hội Kế toán công chứng Trung Quốc nghiên cứu, soạn thảo trước khi Chính phủ công bố nhằm quản lý nâng cao, chất lượng kiểm toán và đạo đức nghề nghiệp của KTV. Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật và các văn bản áp dụng quy phạm pháp luật về KTĐL của Trung Quốc được cơ quan có thẩm quyền cấp trung ương ban hành. Nhưng các văn bản quy phạm pháp luật dưới luật hoặc hướng dẫn chi tiết cụ thể được điều chỉnh bởi chính quyền địa phương.

Mô hình quản lý và giám sát kiểm toán độc lập

Quản lý và giám sát KTĐL tại Trung quốc thực hiện theo mô hình luật định. Nhà nước giao cho Bộ Tài chính, UBCK thực hiện QLNN, Hội Kế toán công chứng Trung Quốc (CICPA) tham gia giám sát theo sự uỷ quyền, trao quyền của Nhà nước. Trung Quốc đề cao tính phân cấp, phân quyền trong hệ thống QLNN đối với KTĐL. Bộ Tài chính là cơ quan QLNN và thực hiện tách bạch chức năng quản lý và chức năng giám sát KTĐL. Chức năng quản lý giao cho Vụ chế độ kế toán, kiểm toán; chức năng giám sát giao cho Cục Thanh tra giám sát. UBCKNN là cơ quan ngang Bộ, trực thuộc Hội đồng Nhà nước chịu trách nhiệm giám sát công bố thông tin của các tổ chức niêm yết và xem xét, chấp thuận DNKiT đủ điều kiện kiểm toán các công ty niêm yết và giám sát việc kiểm toán các các công ty niêm yết.

Hội Kế toán công chứng Trung Quốc (CICPA) là tổ chức nghề nghiệp lớn ở Trung Quốc. Hội viên cá nhân phải là người đã có chứng chỉ kế toán viên công chứng, hội viên tổ chức phải là các DNKiT và doanh nghiệp kế toán. Tại Trung quốc, quy định, các DNKiT và doanh nghiệp kế toán và người hành nghề kế toán, kiểm toán bắt buộc phải là hội viên của CICPA.


Kiểm tra, giám sát kiểm toán độc lập

Chủ thể và hình thức kiểm tra, giám sát

Hoạt động kiểm soát KTĐL ở Trung Quốc được thực hiện bởi nhiều cơ quan Nhà nước: Bộ Tài chính, UBCK và Hội Kế toán công chứng Trung Quốc. Ở mỗi cơ quan Nhà nước và Hội nghề nghiệp lại chia ra thành cấp Trung ương và cấp địa phương. Hình thức kiểm tra, chủ yếu được thực hiện theo phương thức kiểm tra bắt buộc kết hợp với kiểm tra chéo. Trong đó, các cơ quan QLNN (Bộ Tài chính, UBCK) thực hiện kiểm tra bắt buộc; Hội Kế toán công chứng Trung Quốc thực hiện kiểm tra chéo. UBCK thực hiện kiểm tra trực tiếp các DNKiT thực hiện kiểm toán cho các tổ chức niêm yết. Kinh phí thực hiện kiểm tra chủ yếu là nguồn thu hội phí do các hội viên đóng góp hàng năm theo quy định.

Quy định của Hội Kế toán công chứng Trung Quốc, tất cả các DNKiT không phân biệt kiểm toán cho các công ty niêm yết hay các loại hình doanh nghiệp khác đều phải được tiến hành kiểm tra ít nhất là 5 năm một lần. Khi lựa chọn DNKiT được kiểm tra, ngoài phương pháp lựa chọn ngẫu nhiên, Hội Kế toán công chứng thường chú ý các vấn đề: (i) Khi đơn vị được kiểm toán thay đổi DNKiT, DNKiT thay thế có khả năng có rủi ro kiểm toán lớn; (ii) Có tranh chấp khá lớn giữa các cổ đông, thành viên góp vốn của DNKiT, hay việc kiểm toán có khả năng ảnh hưởng đến chất lượng BCTC; (iii) Sử dụng các thủ đoạn cạnh tranh không lành mạnh để thu hút khách hàng; (iv) Có sự tố giác về hành vi vu khống của DNKiT này đối với DNKiT khác làm tổn hại đến lợi ích của các DNKiT; (v) DNKiT thực hiện kiểm toán cho các cơ quan tài chính và DNNN; (vi) DNKiT mới thành lập hoặc lần đầu kiểm toán công ty niêm yết; (vii) Các đối tượng mà Hội Kế toán công chứng cho rằng cần phải tiến hành kiểm tra.

Quy định về kiểm tra các DNKiT chia thành 2 đối tượng: các DNKiT thực hiện kiểm toán cho các công ty niêm yết sẽ do Hội Kế toán công chứng Trung ương quản lý và trong 3 năm phải kiểm tra hết một lượt. Các DNKiT khác sẽ do Hội Kế toán công chứng địa phương kiểm tra và trong 3 năm phải kiểm tra hết một lượt.

Công khai kết quả kiểm tra

Hàng năm Bộ Tài chính và UBCK đều công khai kết quả kiểm tra, nêu các vấn đề quan trọng và đưa ra các vấn đề tồn tại nghiêm trọng sẽ tái kiểm tra vào năm sau. Các sai phạm cần phải kỷ luật thì căn cứ vào tình tiết về kiểm toán liên quan, tập trung vào các nội dung chú trọng của từng năm. Trường hợp KTV hay DNKiT từ chối, cản trở công tác kiểm tra hoặc không tuân theo yêu cầu sau kiểm tra sẽ công khai thông báo. Khi phát hiện DNKiT có vi phạm thông qua kiểm tra định kỳ


của cấp địa phương hoặc phát hiện qua các báo cáo hàng năm, hoặc qua báo chí, qua tố giác sẽ bị xử phạt hành chính như phạt tiền, cảnh cáo hoặc triệu tập đương sự đến giải trình tại Ủy ban xử phạt hành chính. Nếu phát hiện tình tiết có liên quan đến hình sự, chuyển hồ sơ sang Ban Thanh tra để tiến hành điều tra. Nếu phát hiện vi phạm cấu thành tội phạm thì chuyển hồ sơ sang cơ quan tố tụng.

Hàng năm, sau khi kết thúc thanh tra, kiểm tra, giám sát các cấp địa phương phải lập báo cáo tổng hợp kết quả gửi nộp cho cấp Trung ương. Nội dung báo cáo gồm: Tình hình tổ chức triển khai công tác kiểm soát; Các vấn đề phát hiện trong kiểm soát; Kết quả kiểm soát; Ý kiến, kiến nghị của DNKiT được kiểm tra.

Trên cơ sở thẩm tra các báo cáo kiểm tra, Hội Kế toán công chứng đưa ra các kiến nghị, sửa đổi đối với các sai phạm của DNKiT và KTV; nếu các tồn tại là nghiêm trọng thì sẽ tái kiểm tra vào năm sau. Các sai phạm cần phải kỷ luật sẽ căn cứ vào tình tiết nặng, nhẹ sẽ áp dụng các phương thức kỷ luật: Nhắc nhở (không bằng văn bản); Phê bình bằng văn bản; Cưỡng chế đào tạo; Ra thời hạn bắt buộc chỉnh sửa các sai phạm; Buộc làm kiểm điểm; Buộc bồi thường, loại bỏ ảnh hưởng do các vấn đề sai phạm gây ra; Thông báo phê bình trong nội bộ ngành; Công khai khiển trách ra công chúng; hoặc loại bỏ tư cách thành viên CICPA.

2.4.2 Một số bài học rút ra đối với Việt Nam

So với một số quốc gia trong khu vực và trên thế giới, Việt nam bước vào xây dựng nền kinh tế thị trường muộn hơn. Quá trình xây dựng và quản lý nền kinh tế thị trường ở Việt Nam cũng chính là quá trình xây dựng cơ chế và chính sách quản lý trong từng lĩnh vực cụ thể của nền kinh tế. KTĐL là một lĩnh vực còn khá mới ở Việt Nam đặc biệt là trong thực tế QLNN. Việc học tập kinh nghiệm của các quốc gia đi trước có ý nghĩa quan trọng trong QLNN đối với KTĐL ở Việt nam. Từ tổng kết kinh nghiệm thực tiễn của một số quốc gia trên thế giới, luận án rút ra ba bài học kinh nghiệm trong QLNN đối với KTĐL nhằm tăng cường quản lý, giám sát và phát triển KTĐL ở Việt Nam.

2.4.2.1 Bài học về xây dựng hệ thống pháp lý đối với kiểm toán độc lập

Bài học về xây dựng chiến lược KTĐL

Xây dựng chiến lược KTĐL riêng biệt

Chiến lược KTĐL cần được xây dựng riêng nhằm xác định quan điểm, tầm nhìn, mục tiêu phát triển KTĐL và sự nhất quán về con đường, các giải pháp cơ bản để thực hiện chiến lược. Từ kinh nghiệm của các quốc gia cho thấy, bí quyết thành công trong xây dựng chiến lược KTĐL là phải gắn với các mục tiêu mang tính định hướng lâu dài của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và chiến lược tài chính để đạt được mục tiêu quản lý tổng thể nền kinh tế.


Tầm nhìn của chiến lược KTĐL

Kinh nghiệm của các quốc gia cho thấy, dù theo đuổi mô hình quản lý nào thì bí quyết thành công trong QLNN đối với KTĐL là chiến lược KTĐL phải có tầm nhìn phù hợp với từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế và sự phát triển của kế toán, kiểm toán quốc gia. QLNN đối với KTĐL phải dựa trên cơ sở kết hợp giữa nhà nước và thị trường, giữa nhà nước và DNKiT, giữa mệnh lệnh hành chính và khuyến khích kinh tế thông qua việc hoạch định chiến lược, chính sách dài hạn.

Bài học về xây dựng và hoạch định chính sách

Đề cao mức độ giải trình, sự phản hồi của các nhóm lợi ích trong nền kinh tế

Các nhà quản lý và hoạch định chính sách nên được trao quyền chủ động và linh hoạt trong xây dựng và ban hành chính sách về KTĐL để đạt được mục tiêu quản lý. Quá trình xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện chính sách không chỉ quan tâm đến các quy trình, thủ tục, trình tự thực hiện để đạt kết quả đầu ra mà còn phải luôn đề cao mức độ giải trình và sự phản hồi của các nhóm lợi ích khác nhau trong nền kinh tế. Nhà nước phải tạo điều kiện để các nhóm lợi ích được tiếp cận thông tin, có quyền trình bày ý kiến, quan điểm về các chính sách có liên quan.

Tính ổn định và thích ứng của hệ thống chính sách

Kinh nghiệm từ các quốc gia cho thấy, xây dựng hệ thống chính sách phải ổn định, đồng bộ và nhất quán với các mục tiêu của chiến lược KTĐL. Chính sách phải thích ứng, có tính sáng tạo và có tầm nhìn phù hợp với từng giai đoạn phát triển của KTĐL sẽ bảo đảm vững chắc cho sự vận hành, khơi dậy các nguồn tiềm năng, phát huy tính tích cực, sáng tạo của các đối tượng thuộc phạm vi điều chỉnh của chính sách. Sự ổn định, linh hoạt và tính dự báo cao của hệ thống chính sách sẽ tạo môi trường thuận lợi cho KTĐL phát triển bền vững và nhận được sự đồng thuận cao từ phía các các đối tượng thuộc phạm vi điều chỉnh của chính sách.

Bài học về xây dựng khuôn khổ pháp lý đối với kiểm toán độc lập

Cần có lộ trình, kế hoạch trong ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Khi ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, các cơ quan QLNN cần quy định lộ trình thực hiện đủ lớn để cơ quan tổ chức thực hiện ban hành tiếp các văn bản hướng dẫn và đối tượng nắm bắt đầy đủ các quy định, từ đó nâng cao hiệu quả của việc chấp hành các văn bản quy phạm pháp luật.

Văn bản quy phạm pháp luật phải bám sát thực tiễn

Việc ban hành, đề xuất sửa đổi, cải cách hệ thống chủ yếu được xây dựng dựa trên thực tiễn thực hiện các chế độ, không nên phụ thuộc vào chương trình làm luật


của Quốc hội. Điều này giúp cho các văn bản quy phạm pháp luật bám sát thực tiễn và thuận lợi hơn trong quá trình tổ chức thực hiện.

Hệ thống pháp luât phải thích ứng với từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế và sự phát triển của kế toán, kiểm toán

Xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật, chỉ nên quy định các vấn đề khung, nguyên tắc chung nhất, không nên quy định quá chi tiết, cứng nhắc sẽ thường xuyên phải cập nhật, hướng dẫn chi tiết. Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật phải có sự kế thừa đảm bảo vận dụng thích ứng với từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế và sự phát triển của kế toán, kiểm toán.

2.4.2.2 Bài học về tổ chức thực hiện chính sách và pháp luật đối với kiểm toán độc lập

Bài học về mô hình tổ chức ộ máy quản lý, giám sát kiểm toán độc lập

Bài học đắt giá rút ra từ Nhà nước Hoa Kỳ về những thất bại khi trao quyền cho tổ chức nghề nghiệp thực hiện quản lý KTĐL. Bài học rút ra là: Nếu tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán phát triển mạnh, đưa ra được các chuẩn mực chặt chẽ, khi đó, Nhà nước chỉ đưa ra các khuôn khổ pháp lý để quản lý KTĐL và chủ thể thực hiện sẽ là tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán dưới sự giám sát của Nhà nước; Ngược lại, nếu tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán không đủ mạnh để đảm nhận vai trò giám sát, khi đó, Nhà nước phải can thiệp sâu thực hiện quản lý KTĐL, tổ chức nghề nghiệp phối hợp thực hiện và tham gia hướng dẫn, tư vấn phát hiện sau kiểm tra.

Tách bạch chức năng quản lý và chức năng giám sát trong QLNN

Từ kinh nghiệm quản lý của các quốc gia cho thấy, Nhà nước nên giao quyền cho một cơ quan QLNN thực hiện chức năng quản lý KTĐL và một cơ quan độc lập thực hiện chức năng giám sát để tránh sự chồng chéo, “kiêm nhiệm” và đảm bảo tính độc lập và khách quan của các bên liên quan trong nền kinh tế.

Cơ chế phối hợp trong quản lý, giám sát kiểm toán độc lập

Kinh nghiệm từ Hoa Kỳ và các quốc gia cho thấy, cần phải có sự can thiệp của Chính phủ vào hoạt động KTĐL thông qua một cơ quan, tổ chức giám sát trực thuộc Chính phủ hoặc là một tổ chức độc lập có chức năng như cơ quan Chính phủ. Cơ quan, tổ chức này có trách nhiệm giám sát chất lượng kiểm toán của DNKiT và KTV. Kinh nghiệm quốc tế cũng cho thấy vai trò không thể thiếu của tổ chức nghề nghiệp trong việc phối hợp với cơ quan, tổ chức giám sát thực hiện hoạt động giám sát chất lượng kiểm toán. Sự phối hợp quản lý giữa cơ quan QLNN và các tổ chức nghề nghiệp sẽ đem lại hiệu quả cao hơn trong việc giám sát DNKiT và KTV. Cơ quan, tổ chức giám sát có thể tận dụng nguồn nhân lực có kinh nghiệm và chuyên môn cao từ tổ chức nghề nghiệp để


tham gia đội ngũ giám sát, phối hợp với tổ chức nghề nghiệp trong kiểm tra chất lượng kiểm toán của các DNKiT và xây dựng chuẩn mực nghề nghiệp.

Bên cạnh việc phối hợp giữa cơ quan, tổ chức giám sát và tổ chức nghề nghiệp trong nước với nhau thì việc phối hợp của các đơn vị này với cơ quan, tổ chức giám sát, tổ chức nghề nghiệp quốc tế là thực sự cần thiết nhằm cải thiện hoạt động giám sát chất lượng kiểm toán. Trong thời đại mà hội nhập quốc tế đang là xu hướng toàn cầu thì các quy định, chuẩn mực kiểm toán điều chỉnh hoạt động KTĐL cũng cần phải cập nhật, điều chỉnh theo thông lệ quốc tế. Sự hợp tác giữa các cơ quan giám sát và tổ chức nghề nghiệp trong nước và các cơ quan, tổ chức quốc tế sẽ góp phần thúc đẩy quá trình hội nhập trên các khía cạnh khuôn khổ pháp lý, chuẩn mực kiểm toán.

2.4.2.3 Bài học về kiểm tra, giám sát kiểm toán độc lập

Lựa chọn chủ thể thực hiện kiểm tra, giám sát

Kinh nghiệm từ các quốc gia cho thấy, chủ thể kiểm tra, giám sát là các cơ quan chức năng của Nhà nước. Đối với các đơn vị có lợi ích công chúng thuộc lĩnh vực chứng khoán, ngoài cơ quan QLNN trực tiếp cần có sự kiểm tra, giám sát của UBCK. Tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán tham gia giám sát, thực hiện kiểm tra chéo và kiểm soát chất lượng kiểm toán của các DNKiT và KTV hành nghề.

Nội dung kiểm tra, giám sát

Nội dung kiểm tra, giám sát sẽ khác nhau giữa các DNKiT tùy thuộc vào rủi ro của từng DNKiT, rủi ro trong các hợp đồng kiểm toán mà các DNKiT đã thực hiện cũng như số lượng hợp đồng kiểm toán đã thực hiện trong năm. Nội dung kiểm tra, giám sát bao gồm đánh giá việc tuân thủ chuẩn mực kiểm toán, chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, hệ thống kiểm soát chất lượng bên trong của DNKiT.

Xây dựng Bộ chỉ số chất lượng kiểm toán là hết sức cần thiết làm cơ sở cho việc đánh giá chất lượng kiểm toán của các DNKiT. Việt Nam có thể tham khảo Bộ chỉ số chất lượng kiểm toán của Hoa Kỳ và Singapore với các chỉ số định tính và định lượng.

Thực hiện kiểm tra chéo là hình thức kiểm tra hiệu quả được các quốc gia lựa chọn bởi tính kinh tế và sự phù hợp với đặc thù KTĐL. Để đạt hiệu quả, Nhà nước phải uỷ quyền, trao quyền thực hiện chức năng giám sát theo quy định của pháp luật cho tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán và xây dựng kế hoạch, phối hợp chặt chẽ với các DNKiT. Kinh phí để thực hiện phải được huy động từ nhiều nguồn khác nhau song để đảm bảo tính độc lập.

Công khai, minh bạch kết quả kiểm tra, giám sát

Bài học rút ra là: phải công bố công khai, rõ ràng quy trình kiểm soát và những sai phạm của đơn vị được kiểm toán, DNKiT và KTV hành nghề; xây dựng và vận hành hiệu quả hệ thống thông tin tới các chủ thể trong nền kinh tế.


Chế tài xử phạt nghiêm minh, công khai, minh ạch và đủ sức răn đe

Bài học rút ra là phải thực hiện kiểm soát toàn diện, chế tài xử phạt đối với các sai phạm phải mạnh, đủ sức răn đe cả về kinh tế và pháp luật. Trình tự, thủ tục xử lý sai phạm phải chặt chẽ nhằm nâng cao trách nhiệm của cơ quan quản lý và người có thẩm quyền trong quản lý, giám sát KTĐL.

Trong quá trình kiểm tra giám sát nếu phát hiện sai phạm nghiêm trọng của KTV và DNKiT phải báo cáo trực tiếp UBCK hoặc cơ quan điều tra để xử lý.

Xem tất cả 218 trang.

Ngày đăng: 02/04/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí