Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Quản Lý Nhà Nước Đối Với Kiểm Toán Độc Lập


2.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước đối với kiểm toán độc lập

Kế thừa các nghiên cứu trước về QLNN, Đào Anh Tuấn (Quản lý nhà nước về thương mại điện tử, 2013); Lê Hà Trang (Quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ ở Việt Nam, 2019); Mai Thị Dung (Quản lý thu bảo hiểm xã hội đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, 2019), luận án phân chia các yếu tố ảnh hưởng đến QLNN đối với KTĐL theo 3 nhóm yếu tố: Nhóm yếu tố thuộc về môi trường quản lý; Nhóm yếu tố thuộc về chủ thể quản lý; Nhóm yếu tố thuộc về khách thể quản lý.

2.3.1 Các yếu tố thuộc môi trường quản lý

Từ các thảo luận về mặt lý thuyết và các nghiên cứu thực nghiệm, luận án hình thành các giả thuyết yếu tố môi trường quản lý ảnh hưởng đến QLNN đối với KTĐL sau đây:

Một là, trình độ phát triển kinh tế và nhận thức của xã hội về KTĐL

Nhận thức của xã hội về KTĐL có tác động tích cực và tạo ra những thách thức đối với nền kinh tế. Với trình độ phát triển kinh tế ở mức độ thấp, sự thừa nhận của xã hội về KTĐL ở mức độ nhỏ thì nhu cầu sử dụng thông tin tài chính đã kiểm toán trong nền kinh tế sẽ ở mức độ rất hạn chế. Khi đó, nhu cầu công khai, minh bạch thông tin tài chính của các đối tượng trong nền kinh tế không đòi hỏi cao. Các đơn vị được kiểm toán luôn coi là “bị kiểm toán” chứ không phải là “được kiểm toán”. Nhận thức của xã hội về KTĐL là hoạt động không cần thiết và các doanh nghiệp luôn e ngại về tính bảo mật của thông tin tài chính nên có xu hướng chỉ sử dụng dịch vụ kiểm toán khi thực sự bắt buộc hoặc cần thiết. Nhận thức này là rảo cản vô hình rất lớn khiến cho QLNN khó đạt được mục tiêu phát triển KTĐL. Khi nền kinh tế phát triển, cùng với mức độ cạnh tranh tăng lên làm tăng nhu cầu sử dụng thông tin tài chính đã kiểm toán. Các đối tượng sử dụng kết quả kiểm toán luôn tin tưởng vào thông tin tài chính đã kiểm toán và đòi hỏi các tổ chức, đơn vị phải kiểm toán BCTC trước khi công bố.

Trình độ phát triển kinh tế và nhận thức của xã hội về KTĐL được đánh giá rõ nét nhất thông qua mức độ tham gia và phản hồi trực của các chủ thể trong nền kinh tế vào các chính sách, pháp luật và quản lý hoạt động KTĐL.

Hai là, thể chế chính trị

Thể chế chính trị và khung pháp lý luôn là nền tảng cho sự phát triển kinh tế cũng như là cơ sở pháp lý cho KTĐL. Nếu như chính trị không ổn định thì sẽ không có một nền kinh tế phát triển bền vững. Luật pháp tác động và điều chỉnh trực tiếp đến KTĐL, nên nếu hệ thống pháp luật chặt chẽ, rõ ràng và một thể chế chính trị minh bạch và ổn định sẽ đem lại nhiều thuận lợi cho hoạt động KTĐL.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 218 trang tài liệu này.


KTĐL được thực hiện là do xã hội cho phép, chừng nào xã hội không còn chấp nhận thì xã hội sẽ rút lại sự cho phép đó bằng cách đòi hỏi Chính phủ can thiệp bằng các cơ chế, chính sách hoặc hệ thống pháp luật. Hành lang pháp lý sẽ cho phép hoặc không cho phép hoặc những ràng buộc, đòi hỏi các bên liên quan trong QLNN đối với KTĐL phải tuân thủ.

Quản lý nhà nước đối với kiểm toán độc lập ở Việt Nam - 9

Thể chế chính trị và hành lang pháp lý là yếu tố ảnh hưởng trọng yếu đến QLNN đối với KTĐL. Sự ảnh hưởng của yếu tố này được đánh giá thông qua tính ổn định, đồng bộ và thích ứng và sự vận dụng linh hoạt của các cơ chế, chính sách, pháp luật với từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế và sự phát triển của KTĐL.

Ba là, hội nhập kinh tế quốc tế

Hội nhập kinh tế toàn cầu đã trở thành xu thế tất yếu và tạo ra những cơ hội đẩy nhanh sự phát triển của các lĩnh vực kinh tế của mỗi quốc gia. Trong xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, KTĐL mở cửa không hạn chế và cho phép các nhà cung cấp dịch vụ kiểm toán của các nước thành viên khác được cung cấp dịch vụ kiểm toán qua biên giới. Với việc mở cửa và hội nhập các DNKiT sẽ có cơ hội tiếp cận với các thành tựu và kỹ thuật kiểm toán hiện đại của các Hãng kiểm toán quốc tế, từng bước nâng cao năng lực cạnh tranh. Quá trình tự do hóa thương mại sẽ mở rộng các phương thức cung cấp dịch vụ khi đó Nhà nước cũng phải hoàn thiện các quy định và khung pháp lý để phù hợp với tiến trình hội nhập.

Hội nhập kinh tế quốc tế được đánh giá là yếu tố ảnh hưởng sâu rộng đến QLNN đối với KTĐL. Sự ảnh hưởng này được kiểm định thông qua các chỉ tiêu đánh giá các quy định về QLNN đối với KTĐL phù hợp với thông lệ quốc tế, hài hòa với các quy định và các thỏa thuận quốc tế song phương và đa phương.

2.3.2 Các yếu tố thuộc chủ thể quản lý

Từ các thảo luận về mặt lý thuyết và các nghiên cứu thực nghiệm, luận án hình thành các giả thuyết về các yếu tố chủ thể quản lý ảnh hưởng đến QLNN đối với KTĐL sau đây:

Một là, phương thức quản lý của Nhà nước

Một phương thức quản lý theo hướng tạo cơ chế phù hợp sẽ tác động tích cực, hiệu quả đến KTĐL giúp thực hiện tốt các mục tiêu quản lý. Ngược lại, nếu phương thức quản lý bó buộc, các thủ tục hành chính phức tạp, chồng chéo sẽ tác động tiêu cực, khi đó, các chính sách ban hành sẽ không sát với thực tế và không đạt được tính hiệu quả và hiệu lực trong quản lý. Phương thức quản lý của Nhà nước hữu hiệu sẽ tác động hiệu quả đến quản lý, kiểm tra và giám sát KTĐL, tạo dựng cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan trong quản lý.


Hai là, quan điểm quản lý, kiểm soát của Nhà nước

Nhà nước bằng quyền lực và sức mạnh kinh tế của mình, tác động có chủ đích và kiểm soát chặt chẽ KTĐL nhằm tránh những tác động tiêu cực đến nền kinh tế. Thực tế hiện nay có hai quan điểm của Nhà nước về quản lý và kiểm soát KTĐL: (1) Nhà nước thực hiện quản lý và giám sát, tổ chức nghề nghiệp tham gia theo uỷ quyền, trao quyền của Nhà nước; (2) Tổ chức nghề nghiệp tự quản lý có sự giám sát của Nhà nước. Với các quan điểm khác nhau sẽ dẫn đến sự khác biệt trong ban hành và thực thi chính sách về KTĐL.

Bên cạnh đó là quan điểm về kiểm tra, giám sát nên giao cho cơ quan QLNN hay đưa ra cơ chế để các DNKiT thực hiện kiểm tra chéo dưới sự giám sát của tổ chức nghề nghiệp sẽ tác động đến việc thiết lập bộ máy hành chính và nhân sự của các cơ quan QLNN. Điều này không chỉ tác động về mặt tổ chức bộ máy QLNN và nguồn nhân lực mà còn tác động đến kiểm soát chất lượng kiểm toán và năng lực cạnh tranh của các DNKiT.

Như vậy, quan điểm của Nhà nước sẽ dẫn đến sự khác biệt trong quản lý và là yếu tố then chốt ảnh hưởng trực tiếp, toàn diện đến QLNN đối với KTĐL. Sự ảnh hưởng này được đánh giá thông qua mức độ hiện thực quyền lực của Nhà nước và hiệu quả của hệ thống chính sách, pháp luật.

Ba là, Năng lực đội ngũ cán ộ QLNN

Đội ngũ cán bộ, công chức là những người trực tiếp tham gia xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách và pháp luật vì vậy đòi hỏi phải có kiến thức và kinh nghiệm về quản lý KTĐL. Sự yếu kém về năng lực quản lý trong thực thi trách nhiệm, sự lúng túng trong phối hợp hoạt động, sẽ tác động trực tiếp đến tính hiệu lực, hiệu quả của QLNN đối với KTĐL. Tổ chức hợp lý cơ cấu, xác định rõ chức năng, quyền hạn, trách nhiệm của các tổ chức và dựa vào yêu cầu cụ thể của cơ cấu để lựa chọn, bố trí, xắp xếp nhân sự trong cơ quan QLNN sẽ tạo nên sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa cơ quan QLNN. Cơ chế phối hợp đồng bộ, hiệu quả sẽ đem lại mức độ tác động quản lý cao, tiết kiệm chi phí chi trả của ngân sách đảm bảo nguyên tắc quản lý chi tiêu theo kết quả đầu ra. Ngược lại, sẽ không đáp ứng được yêu cầu quản lý gây nên những tác động ngược chiều, dẫn đến vận hành của các cơ quan QLNN sẽ kém chất lượng, không hiệu quả, lúng túng trong phối hợp, không đảm bảo tính hiệu lực, hiệu quả của QLNN đối với KTĐL. Như vậy, trình độ quản lý, năng lực đội ngũ cán bộ là yếu tố then chốt ảnh hưởng trực tiếp QLNN đối với KTĐL.

2.3.3 Các yếu tố thuộc khách thể quản lý

Từ các thảo luận về mặt lý thuyết và các nghiên cứu thực nghiệm, luận án hình thành các giả thuyết yếu tố khách thể quản lý ảnh hưởng đến QLNN đối với KTĐL sau đây:


Một là, năng lực tổ chức quản lý và nguồn lực của DNKiT

Năng lực tổ chức quản lý, điều hành và nguồn lực của các DNKiT là yếu tố quan trọng ảnh hưởng tích cực đến việc đưa các chủ trương chính sách và pháp luật vào thực hiện trong thực tế hoạt động và là yếu tố tích cực tạo nên sự thành công trong nội dung công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong QLNN đối với KTĐL. Thực tế cho thấy, những DNKiT quy mô vừa và nhỏ thường có năng lực tổ chức quản lý điều hành kém, nguồn nhân lực hạn chế, KTV hành nghề ít về số lượng và thiếu về kinh nghiệm nên ít tạo lập được niềm tin từ đối tượng sử dụng kết quả kiểm toán. Những DNKiT này thường có chất lượng kiểm toán thấp, khả năng tiếp cận thông tin kém và không đưa ra được ý kiến, quan điểm với cơ quan Nhà nước trong soạn thảo, ban hành, thực thi chính sách, pháp luật và các hoạt động tổ chức quản lý, kiểm tra, giám sát KTĐL. Ngược lại, những DNKiT quy mô lớn thường năng lực quản lý tổ chức, quản lý, điều hành cao, số lượng KTV hành nghề lớn có năng lực chuyên môn và trải qua nhiều kinh nghiệm thực tế, quy trình kiểm soát chất lượng tốt. Những DNKiT này luôn có chất lượng kiểm toán tốt và có khả năng tiếp cận thông tin và tham gia phản hồi tích cực với cơ quan Nhà nước trong soạn thảo, thực thi chính sách, pháp luật.

Hai là, ý thức chấp hành pháp luật của khách thể quản lý

Ý thức chấp hành pháp luật của các DNKiT, KTV hành nghề và đơn vị được kiểm toán thể hiện mức độ hiểu biết và nhận thức về các chính sách, pháp luật. thức chấp hành pháp luật được coi là một yếu tố then chốt quyết định sự thành công của QLNN. Ý thức chấp hành pháp luật còn thể hiện ở cách các khách thể quản lý tiếp cận thông tin và trình bày ý kiến, quan điểm khi Nhà nước ban hành chính sách liên quan hoặc xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của mình. Nếu thiếu đi sự tham gia và phản hồi của các đối tượng trong nền kinh tế sẽ tạo ra sự không đồng bộ, kịp thời trong soạn thảo và ban hành chính sách, sự thiếu hướng dẫn khi giải quyết các vướng mắc phát sinh trong quá trình thực thi chính sách và khiến cho việc tuân thủ các quy định trong chính sách, pháp luật bị hạn chế. Khi các DNKiT, KTV hành nghề và đơn vị được kiểm toán đều có nhận thức đầy đủ và có ý thức chấp hành pháp luật nghiêm túc sẽ góp phần tạo nên một thị trường lành mạnh, phát triển bền vững, hạn chế tối đa tổn thất cho nền kinh tế do những rủi ro gây nên.

Ba là, năng lực cạnh tranh của các DNKiT

Năng lực cạnh tranh là các khả năng tạo ra được lợi thế chiếm lĩnh thị phần cao hơn so với đối thủ cạnh tranh. Chất lượng kiểm toán và giá cả dịch vụ là các yếu tố ảnh hưởng lớn đến khả năng cạnh tranh của các DNKiT. Nhóm các DNKiT


có quy mô nhỏ và vừa, số lượng KTV ít, thiếu kinh nghiệm do nguồn lực hạn chế nên thường có chất lượng dịch vụ KTĐL kém, mức phí dịch vụ thường thấp và ít tạo lập được niềm tin cho các đối tượng trong nền kinh tế. Nhóm các DNKiT có quy mô lớn, vốn điều lệ cao, số lượng KTV và nhân viên chuyên nghiệp lớn, có thời gian họạt động dài, năng lực cạnh tranh cao nên có chất lượng kiểm toán vượt trội, phí dịch vụ cao và luôn tạo lập niềm tin cho đối tượng sử dụng kết quả dịch vụ KTĐL cung cấp.

Trong môi trường cạnh canh, do phải cân nhắc giữa chi phí và lợi ích nên nhiều đơn vị, tập đoàn kinh tế mới nổi thường lựa chọn các DNKiT nhỏ và vừa với mức phí dịch vụ thấp thay vì lựa chọn các DNKiT có quy mô lớn nhưng mức phí cao. Việc lựa chọn các DNKiT không phù hợp, có năng lực và nguồn lực hạn chế với chi phí dịch vụ thấp, chất lượng dịch vụ kém sẽ tạo ra sự thông đồng lẫn nhau giữa DNKiT và KTV hành nghề với đơn vị được kiểm toán. Để giải quyết xung đột lợi ích lợi ích, Nhà nước phải quản lý các DNKiT dựa trên năng lực, khả năng cạnh tranh và nguồn lực và phải có quy chế quản lý và kiểm soát chặt chẽ chất lượng kiểm toán đặc biệt là các DNKiT được chấp thuận kiểm toán cho các đơn vị có lợi ích công chúng.

2.4 Kinh nghiệm quốc tế về quản lý nhà nước đối với kiểm toán độc lập và ài học cho Việt Nam

2.4.1 Kinh nghiệm quản lý nhà nước đối với kiểm toán độc lập ở một số quốc gia

KTĐL có lịch sử phát triển hàng trăm năm trên thế giới. Ở Việt nam, KTĐL đang trong giai đoạn phát triển nên việc nghiên cứu kinh nghiệm thực tiễn QLNN đối với KTĐL của các quốc gia phát triển sẽ giúp Việt Nam thành công hơn trong quản lý, giám sát và phát triển KTĐL. Luận án tập trung nghiên cứu thực tiễn QLNN đối với KTĐL ở 3 quốc gia có KTĐL phát triển là Hoa kỳ, Singapore, và Trung Quốc. Trong đó, Hoa Kỳ là quốc gia theo đuổi mô hình QLNN đánh giá theo kết quả công việc, quản lý và giám sát KTĐL đạt hiệu quả cao và có thị trường KTĐL phát triển. Singapore là quốc gia có hoạt động quản lý và giám sát KTĐL hiện đại, Nhà nước thực hiện quản lý với sự tư vấn của một hội đồng độc lập. Sự có mặt của hội đồng tư vấn với nhiều thành phần trong xã hội đã làm cho các quy chế quản lý, giám sát KTĐL của Singapore luôn mềm dẻo và đạt hiệu quả cao. Trung Quốc là quốc gia đang phát triển và có nhiều điểm tương đồng về kinh tế, chính trị với Việt Nam, kinh nghiệm của Trung Quốc sẽ là bài học tốt cho Việt Nam.

2.4.1.1 Kinh nghiệm quản lý nhà nước đối với kiểm toán độc lập ở Hoa Kỳ

Hệ thống pháp lý đối với KTĐL

Theo đuổi mô hình QLNN đánh giá theo kết quả công việc, Nhà nước Hoa Kỳ luôn đề cao mức độ giải trình và sự phản hồi của các nhóm lợi ích trong nền kinh tế khi xây dựng hệ thống pháp lý đối với KTĐL. Các nhà hoạch định được trao quyền


chủ động, linh hoạt trong quá trình xây dựng, ban hành, sửa đổi, cải cách hệ thống pháp lý. Chiến lược KTĐL được xây dựng riêng biệt và luôn gắn kết với các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Hệ thống pháp lý đối với KTĐL được xây dựng ở cấp liên bang dựa trên thực tiễn thực hiện không phụ thuộc vào chương trình làm luật của Quốc hội. Văn bản quy phạm pháp luật luôn bám sát thực tiễn và thuận lợi trong tổ chức thực hiện. Những chính sách lớn và dài hạn được thể chế hóa bằng các đạo luật như: Luật Kiểm toán độc lập, Luật kế viên công chứng, Đạo luật Sarbanes-Oxley Hoa Kỳ. Tại Hoa Kỳ, tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán phát triển mạnh nên các chuẩn mực kiểm toán, chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, Nhà nước giới hạn vai trò của mình và giao cho Hiệp hội kế toán công chứng Hoa Kỳ (AICPA), nghiên cứu, soạn thảo, ban hành, công bố và tổ chức thực hiện.

Bộ chỉ số chất lượng kiểm toán được xây dựng bao gồm các chỉ số thể hiện ở cấp độ DNKiT, cấp độ hợp đồng dịch vụ và một số chỉ số thể hiện cả hai cấp độ.

Mô hình quản lý và giám sát kiểm toán độc lập

Tại Hoa Kỳ, Nhà nước thực hiện phi tập trung hóa quyền lực, áp dụng chế độ cùng quản lý. Chức năng quản lý và giám sát được giao cho các cơ quan độc lập, Nhà nước chỉ tập trung thực hiện chức năng định hướng, khuyến khích và quản lý vĩ mô nền kinh tế.

Trước năm 2002, QLNN đối với KTĐL được thực hiện theo mô hình tự quản lý. Nhà nước giao quyền cho Hiệp hội kế toán công chứng Hoa Kỳ thực hiện chức năng quản lý và giám sát KTĐL. Sau sự kiện Enron với sự sụp đổ của hãng kiểm toán Arthur Andersen, Nhà nước Hoa Kỳ nhận thấy những thất bại khi trao quyền cho tổ chức nghề nghiệp thực hiện chức năng quản lý KTĐL. Các tổ chức nghề nghiệp quan tâm bảo vệ lợi ích của những người hành nghề hơn là bảo vệ các lợi ích xã hội. Từ năm 2002, QLNN đối với KTĐL tại Hoa Kỳ được thực hiện theo mô hình tự quản lý có sự giám sát của Nhà nước.

Kiểm tra, giám sát kiểm toán độc lập

Chủ thể và hình thức kiểm tra, giám sát

Chủ thể thực hiện kiểm tra, giám sát chất lượng các dịch vụ kế toán, kiểm toán tại Hoa Kỳ được thực hiện thông qua sự phối hợp thực hiện của hai tổ chức là Hiệp hội nghề nghiệp (AICPA) và Ủy ban Giám sát hoạt động kiểm toán các công ty đại chúng (PCAOB), trong đó PCAOB có chức năng tương tự như cơ quan quản lý Chính phủ. PCAOB thực hiện chọn mẫu DNKiT để kiểm tra dựa vào việc đánh giá các rủi ro của từng DNKiT cũng như dựa trên việc đánh giá các sai sót có thể xảy ra của các BCTC đã được kiểm toán. PCAOB đặc biệt quan tâm đến các khoản mục rủi ro cao và ảnh hưởng xấu đến thị trường vốn (như là các khoản vay, cầm cố bằng cổ phiếu, các công cụ tài chính và giao dịch có đòn bẩy tài chính cao, giá của các cổ


phiếu và tính thanh khoản của các tài sản). Tùy vào từng hệ thống KSCL bên trong của từng DNKiT mà các thủ tục kiểm tra được xây dựng cho phù hợp. Các DNKiT phát hành hơn 100 báo cáo kiểm toán cho các công ty đại chúng sẽ kiểm tra chi tiết và phức tạp hơn các DNKiT nhỏ.

Chương trình kiểm tra chéo giữa các DNKiT được thực dưới sự quản lý và giám sát của Ủy ban Kiểm tra chéo Quốc gia (PRB), Ủy ban Giám sát kiểm toán các công ty đại chúng (PCAOB), Hiệp hội kế toán công chứng Hoa Kỳ (AICPA) nhằm hỗ trợ giám sát thực hành nghiệp vụ, nâng cao chất lượng dịch vụ kiểm toán và đưa ra các biện pháp điều chỉnh.

Để kiểm soát chất lượng kiểm toán cho các công ty niêm yết, Trung tâm chất lượng kiểm toán Hoa Kỳ (US CAQ) với sự hỗ trợ của Uỷ ban chứng chứng khoán đưa ra Bộ chỉ số chất lượng kiểm toán với 20 chỉ số (Số giờ đào tạo trung bình tính cho 1 nhân sự kiểm toán; Kết quả soát xét nội bộ chất lượng hợp đồng dịch vụ; Kết quả các cuộc kiểm tra do cơ quan bên ngoài thực hiện; Khối lượng công việc của partner kiểm toán; Kinh nghiệm của nhân sự kiểm toán đối với lĩnh vực kinh doanh của hợp đồng; Khối lượng công việc của nhân viên kiểm toán; Số giờ tham gia hoặc số năm kinh nghiệm của các nhân sự cao cấp trong cuộc kiểm toán; Thời gian đào tạo trung bình cho nhân viên và cho từng thành viên nhóm kiểm toán; …)

Để kiểm soát chất lượng kiểm toán cho các công ty đại chúng, Ủy ban giám sát kiểm toán các công ty đại chúng (PCAOB) phát hành Bộ chỉ số chất lượng kiểm toán với 28 chỉ số. Bộ chỉ số bao gồm các chỉ số chất lượng kiểm toán phổ biến trong Bộ chỉ số của tổ chức US CAQ đã ban hành và bổ sung thêm các chỉ số: Tỷ lệ nhân viên kiểm toán trên 1 partner kiểm toán; Số năm kinh nghiệm của nhân sự kiểm toán; Đầu tư cho việc xây dựng phương pháp và công cụ kiểm toán mới; Mức độ thuyên chuyển sang bộ phận khác hoặc doanh nghiệp khác của nhân viên kiểm toán; Tỷ lệ thôi việc của KTV; Kết quả các cuộc kiểm tra nội bộ và bên ngoài cho DNKiT hoặc đối với các thành viên nhóm kiểm toán; Số giờ tham gia của các nhân sự cấp cao trong cuộc kiểm toán; Tuân thủ các yêu cầu về tính độc lập; ….

Công khai kết quả kiểm tra

Kết thúc kiểm tra, AICPA và PCAOB sẽ lập báo cáo kiểm tra nêu rõ các yếu kém trong hệ thống KSCL của DNKiT. Báo cáo sẽ không công bố rộng rãi ra công chúng nếu AICPA và PCAOB nhất trí về việc DNKiT khắc phục các yếu kém trong vòng 12 tháng kể từ ngày phát hành báo cáo. Nếu kết quả điều tra cho thấy DNKiT hoặc KTV vi phạm, AICPA sẽ tiến hành xử lý vi phạm: Phạt tiền, hủy bỏ tư cách thành viên, thu hồi giấy phép hành nghề kiểm toán; và cấm KTV tham gia kiểm toán cho bất kỳ công ty đại chúng nào từ 1 đến 5 năm, cảnh cáo và bắt buộc tham gia thêm các khóa đào tạo.


Trong quá trình kiểm soát, các sai phạm của KTV và DNKiT thực hiện kiểm toán cho các công ty đại chúng sẽ được AICPA và PCAOB báo cáo trực tiếp cho Ủy ban Điều tra hoặc sẽ báo cáo trực tiếp cho Ủy ban chứng khoán. PCAOB sẽ tiến hành thủ tục tố tụng theo luật định và cấm KTV tham gia kiểm toán cho bất kỳ công ty đại chúng nào từ 1 đến 5 năm.

2.4.1.2 Kinh nghiệm quản lý nhà nước đối với kiểm toán độc lập ở Singapore

Hệ thống pháp lý đối với KTĐL

Singapore là một quốc gia theo đường lối kinh tế tư bản với sự can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế được giảm thiểu tối đa. Singapore có môi trường kinh doanh mở, tham nhũng thấp, minh bạch tài chính cao. Nhà nước Singapore ủy quyền cho các cơ quan tác nghiệp trực tiếp thực hiện chức năng cung ứng dịch vụ, cấp Bộ chỉ giữ lại trách nhiệm hoạch định chính sách.

Hệ thống pháp lý đối với KTĐL tiếp cận theo hướng khách quan, phát triển bền vững dựa trên sự chuyển đổi từ tư duy về “thực hiện theo nhiệm vụ được giao” sang “hợp tác”, từ “cung ứng dịch vụ” sang “kiến tạo giá trị” luôn giúp cho Singapore có những chính sách phát triển KTĐL bền vững. Chiến lược KTĐL được xây dựng riêng biệt cùng với chiến lược khu vực dịch vụ Singapore do Hội đồng tiền tệ quốc gia Singapore và Ủy Ban Đánh giá kinh tế Singapore xây dựng. Mục tiêu của chiến lược KTĐL là đưa Singapore trở thành nhà cung cấp dịch vụ có chất lượng quốc tế hàng đầu ở Châu Á. Luật KTĐL, Luật CPA do Quốc hội ban hành. Chính phủ xây dựng và công bố chuẩn mực kiểm toán, chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp với sự tư vấn Hội đồng chuẩn mực kế toán, kiểm toán Singapore. Chuẩn mực kiểm toán của Singapore được ban hành gần như toàn văn chuẩn mực kiểm toán quốc tế (ISA).

Bộ chỉ số chất lượng kiểm toán được ban hành với 8 chỉ số, bao gồm các chỉ số định lượng (Số giờ đào tạo trung binh tính cho nhân sự kiểm toán; Tỷ lệ nhân viên kiểm toán trên 1 partner kiểm toán; Số năm kinh nghiệm của nhân sự kiểm toán; Kết quả các cuộc kiểm tra do cơ quan bên ngoài thực hiện; Khối lượng công việc của partner kiểm toán), và các chỉ số định tính (Kết quả soát xét nội bộ chất lượng hợp đồng dịch vụ; Kinh nghiệm của nhân sự kiểm toán đối với lĩnh vực kinh doanh của hợp đồng; Mức độ thuyên chuyển sang bộ phận khác hoặc doanh nghiệp khác của nhân viên kiểm toán).

Mô hình quản lý và giám sát kiểm toán độc lập

Tại Singapore, quản lý và giám sát KTĐL được thực hiện theo mô hình nhà nước - hội đồng tư vấn. Chính phủ giao cho Bộ Tài chính Singapore thực hiện chức năng quản lý. Hội đồng giám sát kế toán viên công chứng (The Public Accountants Oversight Committee - PAOC) là cơ quan trực thuộc Cơ quan quản lý kế toán và

Xem tất cả 218 trang.

Ngày đăng: 02/04/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí