+ Đầu ra: Kết quả học tập của HS được đánh giá trong quá trình giảng dạy chính thức...
Tiếp theo, trong hơn hai thập kỉ gần đây, kiểm tra, đánh giá GD được coi là khâu then chốt để nâng cao chất lượng dạy học, là kênh phản hồi của quá trình dạy học và là cơ sở để nâng cao chất lượng đổi mới GD [19], [21].
Các công trình của McMillan (2001 và 2008) đã đóng góp nhiều về lí luận kiểm tra, đánh giá GD, ý nghĩa, vai trò, các khái niệm cơ bản và khái niệm liên quan cũng như các hướng vận dụng kiểm tra, đánh giá hiệu quả trong thực tiễn GD, thực tiễn hoạt động tổ chức lớp học [26], [27].
Công trình của Airasian (2005) nghiên cứu tương đối sâu sắc về kiểm tra, đánh giá lớp học và tổ chức các hoạt động GD của GV và đặc biệt nhấn mạnh hệ thống khái niệm, các phạm trù liên quan và các lĩnh vực vận dụng kiểm tra, đánh giá đánh giá GD (như trong từng môn học, với các loại kiểm tra trắc nghiệm khách quan, quan sát, tự luận… [19].
Nghiên cứu của Halpern (1994) nêu lên định hướng đổi mới kiểm tra, đánh giá như một trong những giải pháp nhằm thay đổi căn bản môi trường GD trong điều kiện ngày càng phức tạp và đa dạng hóa, như ứng dụng mạnh mẽ của công nghệ thông tin, sự linh hoạt của mô hình GD, sự dân chủ tương đối giữa người dạy và người học…[23].
Tác giả Lưu Xuân Mới (1998) đã nêu quan điểm: kiểm tra, đánh giá trong GD là một quá trình hoạt động được tiến hành có hệ thống nhằm xác định mức độ đạt được của đối tượng GD về mục tiêu đã định; nó bao gồm sự mô tả định tính và định lượng kết quả đạt được thông qua những nhận xét, so sánh với mục tiêu và tương ứng với chúng có các phương pháp và chuẩn kiểm tra, đánh giá (chỉ báo) nhất định [9].
Cuốn sách “Dạy và học tích cực” của Dự án Việt - Bỉ đưa một số phân loại như: kiểm tra, đánh giá định kì nhà trường theo tiêu chuẩn kiểm định chất lượng; kiểm tra, đánh giá xếp loại giáo viên theo chuẩn nghề nghiệp; kiểm tra, đánh giá chương trình, sách giáo khoa; kiểm tra, đánh giá giờ dạy của một giáo viên theo tiêu chí đã được ban hành...; Bên cạnh đó phân tích mối quan hệ giữa kiểm tra, đánh giá và các thành tố cấu trúc của quá trình dạy học [3].
Tác giả Trần Thị Tuyết Oanh (2004) đã phân loại chức năng kiểm tra, đánh giá, trong đó nhấn mạnh chức năng hỗ trợ điều chỉnh của kiểm tra, đánh giá đối với quá trình dạy học [10]...
1.1.2. Các nghiên cứu về kiểm tra nội bộ ở trường trung học cơ sở
1.1.2.1. Nghiên cứu ngoài nước
Có thể bạn quan tâm!
- Quản lý kiểm tra nội bộ hoạt động dạy học của hiệu trưởng các trường trung học cơ sở huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn - 1
- Quản lý kiểm tra nội bộ hoạt động dạy học của hiệu trưởng các trường trung học cơ sở huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn - 2
- Giáo Viên: Nhà Giáo Dục (Hay Giáo Viên, Nhà Sư Phạm…) Là Chủ Thể Của Các Tác Động Giáo Dục. Nhà Giáo Dục Sẽ Liên Kết Với Phụ Huynh Học Sinh Và Cán
- Chỉ Đạo, Tổ Chức Thực Hiện Kế Hoạch Của Trường Thcs
- Tình Hình Đội Ngũ Cán Bộ Quản Lý Tại Các Trường Được Khảo Sát (Năm Học 2016-2017)
Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.
Ở nước ngoài hoạt động KTNB trường học được gọi theo nhiều cách khác nhau và được nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, các nghiên cứu đều thống nhất rằng quy trình KTNB trường học được thực hiện hoàn toàn bởi nhân viên của nhà trường, được thành lập thành một nhóm đánh giá chuyên biệt. Những nhóm này thường bao gồm các giáo viên và các thành viên thuộc Ban quản lý của nhà trường. Các nghiên cứu về hoạt động KTNB trường học của một số nước cũng chỉ ra rằng:
- Các thành viên chuyên trách trong nhóm đánh giá nội bộ của nhà trường chịu trách nhiệm hoàn toàn về kết quả kiểm tra và quá trình KTNB ở trường học;
- Đánh giá nội bộ trường học có tác động tích cực đến hoạt động của trường học, gia tăng thành tích học tập của học sinh và nâng cao chất lượng giảng dạy của giáo viên, mặc dù những ảnh hưởng tích cực này phụ thuộc nhiều vào điều kiện cơ chế quản lý;
- Các nghiên cứu thực hiện tại Đan Mạch, Anh, Phần Lan, Xcốt-len và Thụy Điển chỉ ra rằng: Ở tất cả các nghiên cứu này đã cho thấy rằng, giáo viên tin là đánh giá, KTNB có tầm ảnh hưởng sâu rộng đến quá trình giảng dạy của họ cũng như chất lượng học tập của học sinh và KTNB đem lại nhiều lợi ích hơn các biện pháp đánh giá từ bên ngoài. Một số công trình và báo cáo nghiên cứu liên quan đến KTNB ở một số nước như sau: Trong nghiên cứu “Quản lý chất lượng giáo dục tại Mauritius và các quyết định của HT đến cải thiện môi trường giáo dục” tại Hà Lan của tác giả Ah-Teck, J. C, & Starr, K. C. tập trung nghiên cứu việc HT ở các trường thuộc Mauritius (Hà Lan) sử dụng hệ thống dữ liệu quản lý chất lượng nội bộ trong việc đưa ra quyết định cải thiện môi trường giáo dục. Kết quả nghiên cứu của các tác giả cũng cho thấy việc quản lý chất lượng KTNB rất quan trọng và nó còn quan trọng hơn khi các HT sử dụng kết quả đó trong các quyết định của mình trong quá trình quản lý nhà trường. Tác giả Davies, D. and Rudd, P. (2001) người Mỹ, trong một nghiên cứu với tên: “Đánh giá kiểm tra nội bộ” (Local Education Authority), đề cập về các yếu tố tác động đến việc đưa ra quyết định thực hiện KTNB trường học của các trường học [31]. Nghiên cứu này được thực hiện trên một số trường tại Mỹ. Kết
quả nghiên cứu chỉ ra rằng Lãnh đạo trường học có vai trò quan trọng trong việc đưa ra quyết định thực hiện KTNB, trong đó lãnh đạo quản lý tốt sẽ duy trì hoạt động KTNB và hướng tới tầm nhìn rõ ràng về sự phát triển của giáo dục. Hai tác giả người Anh là Hall, C., & Noyes, A. (2007), nghiên cứu về “Ảnh hưởng của KTNB trường học đến quan điểm của giáo viên tại Anh về công tác giảng dạy của bản thân”. Tại nghiên cứu này, các tác giả phân tích về nhận thức của giáo viên và hiểu biết của họ về quy trình tự đánh giá chất lượng khi chính phủ Anh đưa ra chính sách yêu cầu các trường thực hiện công tác KTNB trường học. Đồng thời xem xét mối liên hệ giữa Thanh tra viên và giáo viên thuộc nhóm KTNB trường học thay đổi thế nào kể từ khi chính sách có hiệu lực. Kết quả cho thấy giáo viên và Ban lãnh đạo trường học hưởng ứng và thực hiện tốt công tác KTNB trường học, không những thế KTNB trường học được giáo viên sử dụng như một công cụ, biện pháp trong việc nâng cao chất lượng giảng dạy của bản thân. Cũng tại Mỹ các tác giả McNaughton, S. Lai, M.K., & Hsiao, S. (2012) nghiên cứu “Kiểm tra tính hiệu quả của mô hình KTNB trường học” (School Effectiveness and School Improvement) tại 07 trường đa văn hóa, đa sắc tộc [32]. Nghiên cứu này trình bày tính hiệu quả của mô hình KTNB trường học phục vụ việc dạy và học của các trường học thuộc cộng đồng bản địa. Theo đó nâng cao vai trò của HT cũng như nâng cao hoạt động quản lý đối với mô hình KTNB trường học đã giúp cho việc quản lý Nhà trường một cách có hiệu quả. Từ một số nghiên cứu trên đây có thể thấy, KTNB trường học được các nhà quản lý giáo dục ở nước ngoài rất coi trọng. Công tác KTNB trường học được đánh giá cao trong việc nâng cao chất lượng giảng dạy của giáo viên, cũng như nâng cao chất lượng học tập của học sinh và việc KTNB trường học được giáo viên cho rằng quan trọng hơn và có tác động nhiều hơn đến hoạt động của trường so với những cuộc kiểm tra từ bên ngoài (thanh tra). Đồng thời các nghiên cứu trên đây cũng cho thấy vai trò của HT trong việc quyết định, tổ chức KTNB trường học tại các nước này.
1.1.2.2. Nghiên cứu trong nước
Hiện nay ở Việt Nam có một số công trình nghiên cứu, các sáng kiến kinh nghiệm quản lý hoạt động KTNB trường học, qua đó nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo. Không những thế Chính phủ còn xây dựng, tổ chức hệ thống thanh kiểm tra từ Nhà nước, Trung ương (Bộ GD&ĐT), đến địa phương và các cơ sở dạy học và
giáo dục trên cả nước và điều hành hệ thống đó bằng các quy định pháp luật, các Nghị định, Thông tư… Cụ thể: Về quản lý nhà trường các tác giả Đặng Quốc Bảo, Nguyễn Ngọc Quang, Hồ Sỹ Tiến đều nghiên cứu về quản lý giáo dục. Trong các công trình của mình, các tác giả đều đưa ra các nguyên tắc chung của quá trình Dạy - Học, từ đó chỉ ra một số biện pháp quản lý nhà trường. Trong đó biện pháp thanh tra, kiểm tra là một trong những biện pháp hữu hiệu để duy trì hoạt động của nhà trường đi đúng mục tiêu, kế hoạch đã định ra cho nhà trường trong từng thời kỳ phát triển. Trong cuốn “Những bài giảng về quản lý trường học tập 1” (1984), tác giả Hà Sĩ Hồ chỉ ra rằng: “Chức năng kiểm tra đặc biệt quan trọng, vì quá trình quản lý đòi hỏi những thông tin chính xác, kịp thời về thực trạng của đối tượng quản lý, về việc thực hiện các quyết định đã đề ra, tức là đòi hỏi những liên hệ ngược chính xác, vững chắc giữa các phân hệ quản lý…” [6]. Ông khẳng định “Quản lý mà không kiểm tra thì quản lý sẽ ít hiệu quả và quản lý trở thành quản lý quan liêu” (trích từ Nguyễn Minh Đạo). Tác giả Nguyễn Ngọc Quang chỉ ra rằng: “… kiểm tra là giai đoạn cuối cùng, kết thúc một chu trình quản lý. Kiểm tra giúp cho việc chuẩn bị tích cực cho kỳ kế hoạch tiếp theo. Kiểm tra tốt, đánh giá được sâu sắc, chuẩn bị trạng thái cuối cùng của hệ (nhà trường) thì đến kỳ kế hoặc tiếp theo (năm học) việc soạn thảo kế hoạch năm học mới sẽ thuận lợi, kế thừa được các mặt mạnh để phát huy, phát hiện được lệch lạc để uốn nắn, loại trừ” [12]. Tác giả kết luận: “… kiểm tra giữ vai trò liên hệ nghịch trong quá trình quản lý. Nó giúp cho chủ thể quản lý điều khiển một cách tối ưu hệ quản lý. Không có kiểm tra không có quản lý” [12].
Ngoài ra, một số đề tài, luận văn tốt nghiệp của các học viên thuộc ngành quản lý giáo dục cũng có các nghiên cứu, đánh giá về một số biện pháp, sáng kiến quản lý hoạt động KTNB trường học nói chung và KTNB HĐDH trường THCS nói riêng. Tuy nhiên các đề tài, sáng kiến kinh nghiệm này thường nghiên cứu công tác KTNB trường học trong phạm vi các trường trong một Huyện của Phòng GD&ĐT thuộc Sở GD&ĐT của một tỉnh. Các đề tài này đề cập đến thực trạng công tác KTNB trường THCS đồng thời đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng KTNB trường học như: Nâng cao nhận thức của đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục; xây dựng kế hoạch và nội dung kiểm tra phù hợp; xây dựng lực lượng KTNB; đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ giáo viên cả về chuyên môn và nghiệp vụ KTNB trường học; tạo điều kiện về cơ sở vật chất cho công tác KTNB trường học… Đồng thời tại các Phòng GD&ĐT của các tỉnh thành trong cả nước đều có các báo cáo Tổng kết công tác KTNB trường học thuộc phạm vi quản lý của Phòng, tại các báo cáo này cũng nêu lên những ưu điểm và những hạn chế trong công tác KTNB trường học tại địa phương và đề ra phương hướng, kế hoạch cho năm học tiếp theo về công tác KTNB trường học. Qua đây có thể thấy, công tác KTNB trường học được thực hiện thường xuyên tại các trường phổ thông nói chung và tại các trường THCS nói riêng. Tuy nhiên những công trình nghiên cứu tổng thể nhằm nâng cao chất lượng quản lý hoạt động KTNB trường học trong đó có trường THCS chưa thực sự nhiều. Trong thời gian tới ngành Quản lý giáo dục cần đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động nghiên cứu về lĩnh vực này, nhằm góp phần vào việc nâng cao chất lượng quản lý quá trình dạy và học trong nhà trường tốt hơn.
1.1.3. Các nghiên cứu về kiểm tra, đánh giá giáo dục
Công tác kiểm tra trong nhà trường được xem như là một trong những vấn đề trọng tâm của hoạt động giáo dục. Nghiên cứu và phát triển những lý thuyết về quản lý đã và đang được nhiều nhà nghiên cứu trong lĩnh vực giáo dục của nước ta thực hiện.
- Tác giả Đinh Sĩ Đại đã đưa ra khái niệm kiểm tra trong quản lý trường học: “Kiểm tra là một biện pháp quan trọng trong hoạt động quản lý trường học của HT và kiểm tra, đó là một chức năng của lao động trong mọi hệ thống, kể cả hệ thống trường học”. Ngoài khái niệm, tác giả còn bàn đến đối tượng của kiểm tra, nội dung kiểm tra, lực lượng kiểm tra, phương pháp kiểm tra... Việc phân cấp kiểm tra các hoạt động giáo dục đảm bảo quản lý trường học một cách tối ưu vì đây là phương pháp quản lý khoa học, nó quy định rõ nề nếp quản lý, báo cáo của các bộ phận trong trường học, đảm bảo độ tin cậy cao làm cơ sở cho việc điều chỉnh hoặc ra quyết định trong quản lý trường học.
- Trong đề tài khoa học cấp nhà nước: “Cơ sở lý luận của việc đánh giá trong quá trình dạy học ở trường phổ thông” của Lê Đức Phúc (1995), đã khái quát những lý luận chung nhất, nhấn mạnh một số quan điểm, nội dung về vấn đề tổ chức kiểm tra để đánh giá chất lượng học tập của học sinh [11].
- Trong tài liệu: “HT quản lý hoạt động dạy học và giáo dục trên lớp” của Thạc sĩ Nguyễn Thị Bích Yến, (2005) có đề cập việc thực hiện một quy trình kiểm tra hoạt động dạy học của HT dựa trên cơ sở các chức năng QL [18].
- Nhiều tác giả khác cũng đưa ra các nhận định về thực trạng quản lý việc kiểm tra đánh giá trong giáo dục hiện nay và các nguyên tắc cơ bản của kiểm tra đánh giá là phải đảm bảo tính chính xác, tính hiệu quả, tính kịp thời, tính thường xuyên, tính thuyết phục, tính khách quan. Đồng thời các tác giả cũng bàn luận về các phương pháp kiểm tra, các ưu điểm, nhược điểm của các hình thức kiểm tra cùng các nhận định và giải pháp... như: “Việc dự giờ của người quản lý trường học” của Đào Vĩnh (1981) [17]; “Đánh giá chất lượng giáo dục cần thống nhất về phương pháp” của Lê Văn Giạng (1981) [4]; “Đánh giá giờ dạy của giáo viên” của Quốc Chấn (1981) [2]; “Vận dụng tư tưởng của Bác Hồ trong kiểm tra trường học” (tạp chí Nghiên cứu giáo dục 1990) [13]; “Về công tác kiểm tra việc dạy-học” của Lê Ngọc Thanh (1983) [14]; “Kiểm định chất lượng giáo dục phổ thông” của Ngọc Hà (2013) [5]; cùng nhiều bài báo, bài viết trên các báo, tạp chí chuyên ngành, mạng Internet,...
- Vấn đề thanh kiểm tra trong quản lý giáo dục còn có cơ sở pháp lý là những Điều lệ, Qui chế, Quy định của Bộ GD&ĐT, trong đó có quy định về mục đích yêu cầu, nội dung, tiến trình thanh tra, kiểm tra, đánh giá và xếp loại nhà trường, giáo viên và học sinh. Đảng và Nhà nước thể hiện rõ trong đường lối, quan điểm về giáo dục và đào tạo là thực hiện chức năng quản lý nhà nước theo sự phân công của chính phủ để làm tốt các nhiệm vụ xây dựng chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển giáo dục; xây dựng cơ chế chính sách và cơ chế quản lý nội dung, chất lượng đào tạo; tổ chức thanh tra và kiểm tra. Công tác thanh tra, kiểm tra để đảm bảo chất lượng giáo dục là vấn đề rất được xem trọng. Trong luật giáo dục (số 38/2005 QH 11 ngày 14/6/2005) ở mục 4 về thanh tra giáo dục từ điều 111 -113 qui định rõ về nội dung, nhiệm vụ, quyền hạn trách nhiệm, tổ chức hoạt động của thanh tra giáo dục [8].
Nhìn chung, các nhà nghiên cứu giáo dục của chúng ta đã có nhiều công trình nghiên cứu về quản lý giáo dục nói chung, công tác KTNB nói riêng nhưng đối với việc KTNB HĐDH thì mới chỉ dừng lại ở các chuyên đề rời rạc, bàn bạc về các khía cạnh của vấn đề mà chưa có một công trình nào chuyên sâu về vấn đề này.
1.2. Trường trung học cơ sở và hoạt động dạy học của trường trung học cơ sở
1.2.1. Trường trung học cơ sở trong hệ thống giáo dục quốc dân
Trường trung học là cơ sở giáo dục phổ thông của hệ thống giáo dục quốc dân.
Trường có tư cách pháp nhân, có tài khoản và con dấu riêng.
1.2.2. Vị trí, vai trò, mục tiêu và nội dung dạy học của trường trung học cơ sở
1.2.2.1. Vị trí vai trò của trường trung học cơ sở
- Trường THCS là cơ quan chuyên môn, giúp UBND huyện thực hiện quản lý nhà nước về giáo dục ở địa phương theo quy định của chính phủ. Đồng thời trường THCS chịu sự quản lý của phòng GD huyện về chuyên môn, nghiệp vụ theo quy định của luật giáo dục và điều lệ trường phổ thông của Bộ giáo dục và đào tạo.
- Tổ chức giảng dạy, học tập và các hoạt động giáo dục khác theo mục tiêu, chương trình giáo dục phổ thông dành cho cấp THCS và cấp THPT do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành. Công khai mục tiêu, nội dung các hoạt động giáo dục, nguồn lực và tài chính, kết quả đánh giá chất lượng giáo dục.
- Quản lý giáo viên, cán bộ, nhân viên theo quy định của pháp luật.
- Tuyển sinh và tiếp nhận học sinh; vận động học sinh đến trường; quản lý học sinh theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
- Thực hiện kế hoạch phổ cập giáo dục trong phạm vi được phân công.
- Huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực cho hoạt động giáo dục. Phối hợp với gia đình học sinh, tổ chức và cá nhân trong hoạt động giáo dục.
- Quản lý, sử dụng và bảo quản cơ sở vật chất, trang thiết bị theo quy định của Nhà nước.
- Tổ chức cho giáo viên, nhân viên, học sinh tham gia hoạt động xã hội.
- Thực hiện các hoạt động về kiểm định chất lượng giáo dục.
- Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.
1.2.2.2. Mục tiêu của chương trình giáo dục Trung học cơ sở
Giáo dục THCS nhằm giúp học sinh củng cố, phát triển những kết quả của giáo dục THCS; có học vấn phổ thông ở trình độ cơ sở và những hiểu biết ban đầu về kĩ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học Trung học phổ thông, trung cấp học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động.
- Trang bị cho học sinh các kiến thức về khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Chú trọng năng lực vận dụng kiến thức khoa học để giải quyết những vấn đề của thực tiễn, đáp ứng nhu cầu cuộc sống hiện tại và tương lai một cách linh hoạt.
- Tổ chức các hoạt động thể thao, văn hóa nghệ thuật và các hoạt động khác để phát huy tối đa năng khiếu và năng lực của từng cá nhân học sinh.
- Tổ chức các hoạt động giáo dục, dạy kỹ năng sống, giá trị sống, các hoạt động giáo dục theo chủ đề để hình thành và phát triển nhân cách cho học sinh.
- Phối hợp các hoạt động giáo dục và đào tạo của Nhà trường nhằm làm cho học sinh tốt nghiệp phổ thông có năng lực tự học, năng lực tư duy, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực hợp tác, biết cảm thụ cái đẹp, sáng tạo, dám nghĩ dám làm và giao tiếp thuyết phục.
1.2.2.3. Nội dung dạy học của trường THCS
Nhằm giúp học sinh củng cố, phát triển những nội dung đã học ở THCS, bảo đảm cho học sinh có những hiểu biết phổ thông cơ bản về Tiếng Việt, toán, lịch sử dân tộc; kiến thức khác về khoa học xã hội, khoa học tự nhiên, pháp luật, tin học, ngoại ngữ; có những hiểu biết cần thiết tối thiểu về kĩ thuật và hướng nghiệp.
1.2.3. Mối quan hệ giữa kiểm tra nội bộ với các thành tố khác của quá trình dạy học
Cấu trúc của quá trình dạy học bao gồm các thành tố cơ bản sau:
1. Mục đích: Mục đích là định hướng, là hướng đi cho một công việc mà ta dự định từ mục đích ta có thể thiết kế ra, chuẩn bị ra nội dung và phương pháp để sau đó, ta đưa tất cả vào thực tiễn. Mục đích của giáo dục cũng không nằm ngoài quy luật ấy.
Mục đích giáo dục là sự định hướng của thế hệ trước đối với thế hệ sau với mong muốn thế hệ trẻ trở thành công dân tốt phù hợp với sự phát triển của thời đại. Thật vậy, ai cũng mong muốn cho thế hệ sau của mình trở nên tốt đẹp, vì vậy mà khi sinh ra, trẻ đã được ông bà cha mẹ quan tâm một cách cực kì tốt, rồi còn chuẩn bị cho bé từng li từng tí, khi bé học mẫu giáo, lên cấp một, rồi cấp hai, cấp ba… rồi vào đời với trăm ngàn ngã rẽ nữa… Tất cả với mong muốn sau nay có một tương lai sáng lạn cho con cháu. Chính vì vậy mà mục đích giáo dục nó chi phối toàn bộ hoạt động giáo dục sau này.