Chương 1.
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG KIỂM TRA NỘI BỘ TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Khái quát lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
Hoạt động kiểm tra nội bộ gần giống với nghiên cứu hoạt động tự đánh giá. Nó được sử dụng các phương pháp nghiên cứu xã hội để cải thiện việc hoạch định, giám sát và kiểm tra những giá trị và chuẩn đầu ra. KTNB khác với nghiên cứu tự đánh giá ở các loại câu hỏi mà nó muốn truyền đạt (Smith, 1987) các câu hỏi của KTNB tập trung vào quản lý và các chính sách được đưa ra, chứ không phải chỉ riêng những câu hỏi về nghiên cứu đánh giá (Arnold J. Love, 1991).
Ở nước ngoài hoạt động KTNB trường học được gọi theo nhiều cách khác nhau (R. Nelson, M. Ehren and D. Dodfrey, 2015) và được nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau. Cụ thể:
- Ở Đan mạch, Anh, Phần Lan, Xcốt- len và Thụy điển chỉ ra rằng: giáo viên của họ tin rằng đánh giá và KTNB được thực hiện có tầm ảnh hưởng sâu rộng đến quá trình dạy cũng như chất lượng học tập của học sinh. KTNB đem lại nhiều lợi ích hơn đánh giá ngoài.
- Công trình nghiên cứu:” Quản lý chất lượng giáo dục tại Mauritius và các quyết định của Hiệu trưởng đến cải thiện môi trường giáo dục” tại Hà Lan được tác giả tập trung về vai trò của KTNB trong công tác quản lý của người Hiệu trưởng thông qua việc sử dụng hệ thống dữ liệu quản lý chất lượng nội bộ. Từ đó cho thấy, KTNB đóng vai trò quan trọng trong việc ra quyết định của người Hiệu trưởng trong quá trình quản lý nhà trường (Jean Claude Ah-teck, 2014).
- Nghiên cứu “Ảnh hưởng của tự đánh giá trường học đến quan điểm của giáo viên tại Anh về công tác giảng dạy của bản thân” của 2 tác giả người Anh là Hall, C., & Noyes, A. (2007) phân tích về nhận thức và hiểu biết của giáo viên về quy trình KTNB đồng thời xem xét mối liên hệ giữa thanh tra viên và các thành viên trong nhóm KTNB của trường kể từ khi chính sách yêu cầu các trường thực hiện công tác
Có thể bạn quan tâm!
- Quản lý hoạt động kiểm tra nội bộ ở các trường trung học phổ thông quận Bình Thạnh thành phố Hồ Chí Minh - 1
- Quản lý hoạt động kiểm tra nội bộ ở các trường trung học phổ thông quận Bình Thạnh thành phố Hồ Chí Minh - 2
- Vị Trí, Vai Trò Của Công Tác Kiểm Tra Nội Bộ Trường Học
- Các Phương Pháp Tác Động Trực Tiếp Đối Tượng
- Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Quá Trình Quản Lý Hoạt Động Kiểm Tra Nội Bộ Ở Trường Thpt
Xem toàn bộ 209 trang tài liệu này.
KTNB trường học. Kết quả cho thấy tập thể nhà trường hưởng ứng và thực hiện tốt công tác KTNB trường học, bên cạnh đó, giáo viên sử dụng kết quả KTNB như 1 công cụ, biện pháp nâng cao chất lượng giảng dạy của bản thân (Hall, C. & Noyes, A., 8 tháng 9, 2007).
Tuy KTNB ở phạm vi thế giới thể hiện qua nhiều hình thức khác nhau, nhưng chung quy, các nghiên cứu đều cho rằng đây là hoạt động quan trọng, cần thiết và có đóng góp vào sự phát triển của nhà trường. Nó được đánh giá cao trong việc phát triển đội ngũ, chất lượng giảng dạy và là công cụ cho CBQL thực hiện chức năng của mình hiệu quả.
1.1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu ở trong nước
Theo Đức Vượng (2000), kiểm tra là một trong những chức năng của công tác quản lý nói chung và quản lý giáo dục nói riêng. Nó được coi là một khâu quan trọng và có vai trò to lớn trong sự phát triển của một tập thể. Nhận thấy được điều đó, trong tác phẩm “Sửa đổi lề lối làm việc” Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định điều đó.
Công tác kiểm tra được Đảng và nhà nước ta đánh giá cao về tầm quan trọng trong công cuộc nâng cao tinh thần lao động của đội ngũ và phát triển sự nghiệp, nó gắn liền với công tác quản lý nhằm đảm bảo thực hiện đúng các chính sách, đường lối của Đảng và nhà nước, giúp cho nhà quản lý kịp thời sữa chữa, giúp đỡ khi có sai phạm.
Trường học là một cơ quan được lập ra nhằm giáo dục học sinh dưới sự giám sát của giáo viên, là nơi giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho xã hội, cho nên công tác quản lý trường học cần phải được đảm bảo về chất lượng và chú trọng vào các chức năng quản lý đặc thù về giáo dục, trong đó có kiểm tra nội bộ. KTNB không còn là một thuật ngữ xa lạ đối với các trường trong hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam. Hiện nay, KTNB là hoạt động cần thiết và là cơ sở để đánh giá chất lượng giáo dục tại cơ sở đó, được thể hiện qua các chính sách, văn bản chỉ đạo như:
- Thông tư 07/2004/TT-BGD&ĐT ngày 30/03/2004 của Bộ Giáo dục và Đào tạo Hướng dẫn thanh tra toàn diện trường phổ thông và thanh tra hoạt động sư phạm của giáo viên phổ thông. Trong mục 4 có đề cập đến công tác quản lý của Hiệu trưởng:
“Coi trọng việc tự kiểm tra của cá nhân, của tập thể giáo viên, công nhân, nhân viên, học sinh. Trong công tác, kiểm tra phải đánh giá tiến độ và kết quả giáo dục, phát hiện thiếu sót, đề xuất phương hướng, biện pháp để phát huy thành tích (đặc biệt coi trọng thực chất thi đua Hai tốt) và sửa chữa khuyết điểm, điều chỉnh chỉ tiêu kế hoạch”.
- Thông tư 43/2006/TT-BGD&ĐT ngày 20/10/2006 của Bộ Giáo dục và Đào tạo Hướng dẫn thanh tra toàn diện nhà trường, cơ sỏ giáo dục khác và thanh tra hoạt động sư phạm của nhà giáo dục. Trong mục II yêu cầu: “Đánh giá đúng thực trạng tình hình cơ sở giáo dục trong mối quan hệ chung và có sự so sánh với mặt bằng của địa phương, khu vực vùng miền và tiêu chuẩn trường chuẩn quốc gia theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Khẳng định những mặt đã làm được, phát huy ưu điểm và tư vấn những biện pháp khắc phục những hạn chế, yếu kém; đồng thời kiến nghị với các cấp quản lý điều chỉnh, bổ sung các chính sách, quy định cần thiết phù hợp với thực tế”.
- Nghị định số 42/2013/NĐ-CP ngày 09/04/2013 của Chính phủ ban hành Nghị định về tổ chức và hoạt động thanh tra giáo dục. Tại khoản 1 điều 5 mục 1 có chỉ rõ về vị trí, chức năng, tổ chức của Thanh tra Bộ Giáo Dục và Đào Tạo:” Thanh tra Bộ Giáo dục và Đào tạo (sau đây gọi tắt là Thanh tra Bộ) là cơ quan của Bộ Giáo dục và Đào tạo, giúp Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo (sau đây gọi tắt là Bộ trưởng) quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng trong lĩnh vực giáo dục; tiến hành thanh tra hành chính, thanh tra chuyên ngành giáo dục, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật”.
- Văn bản Số 3936/BGDĐT-TTr của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc Hướng dẫn thực hiện công tác thanh tra năm học 2017-2018, trong mục 3 có nêu rõ :” Kết luận phải chỉ rõ những việc đã làm được, những thiếu sót, sai phạm (nếu có); phải xác định rõ trách nhiệm và kiến nghị xử lý, khắc phục. Căn cứ tính chất từng cuộc thanh tra để thực hiện công khai kết luận thanh tra theo quy định”.
Từ đó cho thấy, KTNB không chỉ là một công đoạn nằm trong công tác quản lý nữa mà nó được cho là một hoạt động quan trọng và bắt buộc của nhà quản lý giáo
dục. Tính đến thời điểm hiện nay có rất nhiều các bài báo, đầu sách, công trình nghiên cứu về hoạt động này, các nhà nghiên cứu giáo dục đã khẳng định vai trò quan trọng của công tác kiểm tra và thanh tra trong nhà trường, cụ thể:
- Trong cuốn “Những bài giảng về quản lý trường học” - tập hai của tác giả Hà Sĩ Hồ (1982) có nêu rõ quan điểm rằng:” chức năng kiểm tra đặc biệt quan trọng, vì quá trình quản lý đòi hỏi những thông tin chính xác, kịp thời về thực trạng của đối tượng quản lý, về việc thực hiện các quyết định đã đề ra, tức là đòi hỏi những liên hệ ngược chính xác, vững chắc giữa các phân hệ quản lý”.
- Trong cuốn “Những khái niệm cơ bản về lí luận quản lý giáo dục” của tác giả Nguyễn Ngọc Quang (1989) có viết: “Chuẩn bị kế hoạch hóa, Tổ chức, Chỉ đạo và Kiểm tra; trong đó, kiểm tra là giai đoạn cuối cùng, kết thúc một chu trình quản lý. Kiểm tra giúp cho việc chuẩn bị tích cực cho kỳ kế hoạch tiếp theo”. Ông khẳng định: “Kiểm tra tốt, đánh giá được sâu sắc và chuẩn bị trạng thái cuối cùng của hệ (nhà trường) thì đến kỳ kế hoạch (năm học) tiếp theo việc soạn thảo kế hoạch năm học mới sẽ thuận lợi, kế thừa được mặt mạnh để tiếp tục phát huy, phát hiện được lệch lạc để uốn nắn loại trừ”.
- Ngoài ra, còn một số cuốn sách về công tác quản lý hay cụ thể hơn là về hoạt động thanh tra, kiểm tra, đánh giá trường học được đánh giá cao như: Khoa học quản lý giáo dục- Một số vấn đề lí luận và thực tiễn của tác giả Trần Kiểm; tác giả Thái Văn Thành với cuốn “Quản lý giáo dục và quản lý nhà trường”; tác giả Quang Anh
- Hà Đăng viết cuốn Những điều cần biết trong hoạt động thanh tra, kiểm tra giáo dục và đào tạo.
- Một số công trình đề tài nghiên cứu liên quan, cụ thể: “ Một số giải pháp quản lý hoạt động kiểm tra nội bộ ở các trường trung học phổ thông huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang.” của tác giả Quách Tấn Triều (2013), “Một số biện pháp quản lý công tác KTNB ở các trường THPT trên địa bàn huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình” của tác giả Lê Anh Tuấn hay đề tài “Quản lý hoạt động kiểm tra nội bộ ở các trường tiểu học huyện Lâm Bình, tỉnh Tuyên Quang” của tác giả Nông Quốc Duy (2017), “Quản lý hoạt động kiểm tra nội bộ tại các trường trung học phổ thông công lập trên địa bàn
thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ đáp ứng nhu cầu đổi mới giáo dục” của tác giả Bùi Văn Sỹ (2017). Các đề tài đã khái quát hóa lí luận về công tác kiểm tra nội bộ trường học, đề cập đến thực trạng và đưa ra các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động quản lý KTNB tại các cơ sở giáo dục.
Các công trình nghiên cứu đã góp phần to lớn vào hệ thống lí luận nhằm làm sáng tỏ công tác KTNB trường học; tuy nhiên, nhìn vào góc độ cấp học thì các công trình nghiên cứu nhằm nâng cao chất lượng giáo dục tạo các trường THPT chưa nhiều, đặc biệt là các nghiên cứu trên địa bàn TP.HCM. Vì thế, vấn đề này cần được làm sáng tỏ để góp phần hoàn hiện hệ thống lí luận giáo dục tổng thể trong giai đoạn mới. Những tài liệu được trích dẫn và những tài liệu về công tác thanh tra, kiểm tra, đánh giá ở trường học cấp THPT sẽ là tài liệu quý giá để nhóm nghiên cứu tham khảo, làm cơ sở và mối liên kết với đề tài “Quản lý hoạt động kiểm tra nội bộ ở các trường THPT quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh” nhằm góp phần nâng cao chất lượng quản lý hoạt động giáo dục trong nhà trường THPT trên địa bàn TP.HCM nói chung và quận Bình Thạnh nói riêng.
1.2. Các khái niệm cơ bản
1.2.1. Hoạt động kiểm tra nội bộ trường học
1.2.1.1. Kiểm tra
Kiểm tra Theo từ điển Tiếng Việt thuật ngữ kiểm tra được hiểu như sau: “Kiểm tra là xem xét tình hình thực tế để đánh giá nhận xét”.
Theo Đặng Bá Lãm (2003): “Kiểm tra là quá trình xác định mục đích, nội dung, lựa chọn phương pháp tập hợp số liệu, bằng chứng để xác định mức độ đạt được của người học trong quá trình học tập rèn luyện và phát triển”.
Theo Nguyễn Công Khanh (2014): “Kiểm tra là hoạt động đo lường để đưa ra các kết quả các nhận xét phán quyết dựa vào các thông tin thu được theo công cụ đã chuẩn bị trước với mục đích xác định xem cái gì đã đạt được cái gì chưa đạt được, những nguyên nhân …”.
Theo tác giả Trần Thị Tuyết Oanh (2007), Kiểm tra là quá trình thu thập, tổng hợp, diễn giải thông tin về học tập và rèn luyện của học sinh để đưa ra những kết luận,
phán đoán hoặc quyết định nhằm cải thiện thực trạng dạy học.
Như vậy có thể hiểu: Kiểm tra là một trong những chức năng cơ bản của quản lý. Đó là công việc - hoạt động nghiệp vụ mà người quản lý ở bất kỳ cấp nào cũng phải thực hiện để biết rõ những kế hoạch, mục tiêu đề ra trên thực tế đã đạt được đến đâu và như thế nào. Từ đó đề ra những biện pháp động viên, giúp đỡ, uốn nắn và điều chỉnh nhằm thúc đẩy các cá nhân và tổ chức phát triển.
1.2.1.2. Kiểm tra nội bộ trường học
Kiểm tra nội bộ trường học là hoạt động xem xét và đánh giá các hoạt động giáo dục, điều kiện dạy – học, giáo dục trong phạm vi nội bộ nhà trường nhằm mục đích phát triển sự nghiệp giáo dục nói chung, phát triển nhà trường, phát triển người giáo viên và học sinh nói riêng.
Kiểm tra nội bộ trường học, về thực chất gồm hai hoạt động:
Hiệu trưởng tiến hành kiểm tra công việc, hoạt động, mối quan hệ của các thành viên, bộ phận và những điều kiện, phương tiện phục vụ dạy học và giáo dục trong nhà trường.
Việc tự kiểm tra của các bộ phận, cá nhân trong trường đối với công việc của mình đảm nhiệm và tự kiểm tra của Hiệu trưởng đối với công tác quản lý nhà trường.
1.2.2. Quản lý hoạt động kiểm tra nội bộ trường học
1.2.2.1. Quản lý
Quản lý là một loại hình lao động quan trọng nhất trong các hoạt động của con người. Trong lao động cần có sự tổ chức và thống nhất nhằm tạo ra sức mạnh để đạt được mục đích chung. Trong lịch sử sự phát triển của loài người đã xuất hiện một dạng lao động mang tính đặc thù là tổ chức – điều khiển con người với các hoạt động theo những yêu cầu nhất định, dạng lao động đó được gọi là quản lý. Xung quanh thuật ngữ quản lý có nhiều cách tiếp cận khác nhau để định nghĩa khái niệm này:
Xét trên phương diện nghĩa của từ, quản lý thường được hiểu là chủ trì hay phụ trách một công việc nào đó. Theo Tự điển Tiếng Việt thông dụng thì “Quản lý là tổ chức, điều khiển hoạt động của một cơ quan, đơn vị”.
Theo Hà Sĩ Hồ (1985): “Quản lý là một quá trình tác động có định hướng (có
chủ đích), có tổ chức, lựa chọn trong số các tác động có thể có, dựa trên các thông tin về tình trạng của đối tượng và môi trường, nhằm giữ cho sự vận hành của đối tượng được ổn định và làm cho nó phát triển tới mục đích đã định”.
Theo Bùi Minh Hiền (2006): “Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu đã đề ra”.
Theo Trần Kiểm (2008): “Quản lý là những tác động của chủ thể quản lý trong việc huy động, phát huy, kết hợp, sử dụng, điều chỉnh, điều phối các nguồn lực trong và ngoài tổ chức một cách tối ưu nhằm đạt được mục đích của tổ chức với hiệu quả cao nhất”.
Bản thân khái niệm quản lý có tính đa nghĩa nên có sự khác biệt giữa nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Hơn nữa, do có sự khác biệt về thời đại, xã hội, chế độ, nghề nghiệp nên khi sự phát triển của phương thức xã hội hoá sản xuất và sự mở rộng trong nhận thức của con người thì sự khác biệt về nhận thức và lý giải khái niệm quản lý càng trở nên rõ rệt.
Dù tiếp cận bằng cách nào cũng cần xem xét bản chất của chức năng lao động đặc biệt này. Bản chất của hoạt động quản lý là tổ chức, chỉ huy và điều khiển phù hợp quy luật của chủ thể quản lý nhằm thực hiện có hiệu quả những mục tiêu của tổ chức đã đề ra.
Vậy khái niệm quản lý được hiểu: quản lý là sự tác động có mục đích, có tổ chức, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến đối tượng và khách thể quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực của tổ chức để đạt được mục tiêu chung của tổ chức trong điều kiện biến động của môi trường.
1.2.2.2. Quản lý giáo dục
Giáo dục là một hoạt động đặc trưng của lao động xã hội, là một hiện tượng xã hội đặc biệt được tồn tại, vận động, phát triển với tư cách là một hệ thống. Giáo dục có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển xã hội. Vì vậy, sự ra đời của quản lý giáo dục là một yếu tố khách quan. Cũng đã có rất nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm quản lý giáo dục.
Theo P.V. Khu- đô-min-xki: “Quản lý giáo dục là sự tác động có hệ thống, có
kế hoạch, có ý thức và mục đích của chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau đến tất cả các khâu của hệ thống nhằm mục đích đảm bảo việc giáo dục cộng sản chủ nghĩa cho thế hệ trẻ, đảm bảo sự phát triển toàn diện, hài hòa cho họ.
Tác giả Trần Kiểm (2008) cho rằng: “Quản lý giáo dục là những tác động tự giác có ý thức, có mục đích, có kế hoạch và hợp quy luật” của chủ thể quản lý đến tất cả các mắt xích của hệ thống (từ cấp cao nhất đến các cơ sở giáo dục là nhà trường) nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu phát triển của Giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu của xã hội.
Tác giả Hồ Văn Liên (2008) cho rằng: “Quản lý giáo dục là hoạt động điều hành, phối hợp, huy động các lực lượng giáo dục và xã hội nhằm thực hiện có hiệu quả công việc giáo dục; không chỉ là sự nghiệp của các nhà trường, của ngành GD - ĐT mà là sự nghiệp chung của cả xã hội”.
Quản lý giáo dục là hoạt động tự giác của chủ thể quản lý nhằm huy động, tổ chức, điều phối, điều chỉnh, giám sát, … một cách có hiệu quả các nguồn lực giáo dục (nhân lực, vật lực, tài lực) phục vụ cho mục tiêu phát triển giáo dục, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Như vậy, quản lý giáo dục là quản lý quá trình giáo dục và đào tạo ở một cơ sở nhất định; là tập hợp các tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau trong hệ thống lên các đối tượng quản lý trực thuộc, thông qua việc thực hiện các chức năng quản lý và việc sử dụng hợp lý các tiềm năng, cơ hội nhằm làm cho hệ thống vận hành, đảm bảo được các tính chất và nguyên lý của nền giáo dục Việt Nam đạt được mục tiêu quản lý.
1.2.2.3. Quản lý nhà trường
Trường học là một cơ sở giáo dục mang tính nhà nước, xã hội trong hệ thống giáo dục quốc dân; là nơi trực tiếp làm công tác giáo dục và đào tạo, nằm trong môi trường xã hội và có tác động qua lại với môi trường đó.
Theo Phạm Minh Hạc (1986): “Quản lý trường học là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng, nhà nước trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu quản lý, mục tiêu đào tạo đối