Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG TRẢI NGHIỆM CỦA HỌC SINH BÁN TRÚ TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Những nghiên cứu trên thế giới
Học tập dựa vào trải nghiệm là tư tưởng lý thuyết giáo dục nổi bật trong thế kỷ
XX. Trong phương pháp trải nghiệm nhấn mạnh đến vai trò chủ động, tích cực của người học, kinh nghiệm cá nhân và sự tương tác với môi trường, phương pháp này có nhiều điểm đối lập với phương pháp giảng dạy truyền thống. Đặt nền móng cho những tư tưởng và lý thuyết giáo dục trải nghiệm này chính là các nhà khoa học giáo dục hàng đầu thế giới như Lev Vygotsky, John Dewey, Albrt Bandura, David Kolb…Việc quản lý, tổ chức hoạt động trải nghiệm gắn liền với các điều kiện thực tế, từ con người đến cơ sở vật chất và mục tiêu của hoạt động trải nghiệm, các tình huống phát sinh trong quá trình trải nghiệm. Với triết lí giáo dục đề cao vai trò của kinh nghiệm, Dewey cũng chỉ ra rằng, những kinh nghiệm có ý nghĩa giáo dục giúp nâng cao hiệu quả giáo dục bằng cách kết nối người học và những kiến thức được học với thực tiễn. Kolb (1984) cũng đưa ra một lí thuyết về học từ trải nghiệm (Experiential learning), theo đó, học là một quá trình trong đó kiến thức của người học được tạo ra qua việc chuyển hóa kinh nghiệm; nghĩa là, bản chất của hoạt động học là quá trình trải nghiệm.
Một số quan niệm khác của các học giả quốc tế cho rằng giáo dục trải nghiệm coi trọng và khuyến khích mối liên hệ giữa các bài học trừu tượng với các hoạt động giáo dục cụ thể để tối ưu hóa kết quả học tập (Sakofs, 1995); học từ trải nghiệm phải gắn kinh nghiệm của người học với hoạt động phản ánh và phân tích (Chapman, McPhee and Proudman, 1995); chỉ có kinh nghiệm thì chưa đủ để được gọi là trải nghiệm; chính quá trình phản ánh đã chuyển hóa kinh nghiệm thành trải nghiệm giáo dục (Joplin, 1995)...
Trung tâm giáo dục trải nghiệm Widehorizon (Chân trời rộng mở) ở thành phố London của nước Anh đã nghiên cứu và triển khai nội dung giáo dục hướng đến cho mỗi đứa trẻ đều có cơ hội trải nghiệm những tri thức về phiêu lưu mạo hiểm. Những khóa học và hoạt động về phiêu lưu - mạo hiểm sẽ làm cho các em học sinh hứng thú, kích thích, vui vẻ, cảm giác dễ chịu và các em học tập tốt hơn, trung tâm này có khá
đầy đủ các phương tiện để tổ chức các hoạt động ngoài trời, hoạt động trải nghiệm và phiêu lưu - mạo hiểm. Các hoạt động này gắn liền với các phương tiện: Phòng học, vườn, công viên; bếp; nơi đỗ xe; sân chơi; thiết bị đo thời tiết; khu hoang dã nhân tạo. Các hoạt động trải nghiệm gắn liền với các hoạt động: Muông thú; nghệ thuật và thiết kế; trường học về rừng; môi trường sống; các loài thú vật, cây cỏ; bản đồ và định hướng; thu gom vật liệu, phế thải; đất và đá; các mùa; nghề xây dựng... Thông qua các hoạt động trải nghiệm này đã cung cấp hàng loạt tình huống, bối cảnh đa dạng, phong phú cho học sinh và đòi hỏi phát triển, ứng dụng nhiều tri thức, kĩ năng trong chương trình, cho phép học sinh sáng tạo và tư duy; giải quyết vấn đề làm theo nhiều cách thức khác nhau nhằm đạt kết quả tốt hơn; cung cấp cho học sinh các cơ hội sáng tạo, đổi mới, dám nghĩ, dám làm…[5].
Có thể bạn quan tâm!
- Quản lý hoạt động trải nghiệm của học sinh bán trú ở các trường trung học phổ thông khu vực phía tây tỉnh Yên Bái - 1
- Quản lý hoạt động trải nghiệm của học sinh bán trú ở các trường trung học phổ thông khu vực phía tây tỉnh Yên Bái - 2
- Hoạt Động Trải Nghiệm Của Học Sinh Trung Học Phổ Thông
- Các Hình Thức Hoạt Động Trải Nghiệm Của Học Sinh Bán Trú Ở Các Trường Thpt
- Năng Lực Tổ Chức Hoạt Động Trải Nghiệm Cho Học Sinh Của Giáo Viên
Xem toàn bộ 150 trang tài liệu này.
Viện nghiên cứu Khoa học Giáo dục tại Hàn quốc đã nghiên cứu chương trình Giáo dục trải nghiệm cho học sinh phổ thông, nội dung hoạt động trải nghiệm được tiến hành đồng thời với hoạt động dạy học các môn học khác trong nhà trường. Được tiến hành xuyên suốt từ tiểu học đến trung học phổ thông theo tỉ lệ từng cấp tiểu học, THCS, THPT là 13,4%, 9,1%, 11,8% so với thời lượng các môn học. Với mô hình là hoạt động ngoại khóa sau các giờ học trên lớp đã thay đổi được tâm thế học tập và tiếp thu của các học sinh. Thông qua những tình huống cụ thể, những hoạt động được trải nghiệm sẽ tác động vào nhận thức và quá trình hình thành nhân cách của học sinh. Hoạt động trải nghiệm sáng tạo về cơ bản mang tính chất hoạt động tập thể trên tinh thần tự chủ cá nhân, với sự nỗ lực giáo dục nhằm phát triển khả năng sáng tạo và cá tính riêng của mỗi cá nhân trong tập thể.
Mỹ: Giáo dục trải nghiệm được thực sự đưa vào giáo dục hiện đại từ những năm đầu của thế kỷ 20. Tại Mỹ, năm 1902, “Câu lạc bộ trồng ngô” đầu tiên dành cho trẻ em được thành lập, CLB có mục đích dạy các học sinh thực hành trồng ngô, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào nông nghiệp thông qua các công việc nhà nông thực tế. Hơn 100 năm sau, hệ thống các CLB này trở thành hoạt động cốt lõi của tổ chức 4-H, tổ chức phát triển thanh thiếu niên lớn nhất của Mỹ, tiên phong trong ứng dụng học tập qua lao động, trải nghiệm...
Nhật: Nền giáo dục Nhật Bản được coi là nền tảng cho sự phát triển toàn diện của con người. Các nhà trường đặc biệt quan tâm đến sự phát triển tự nhiên của cá nhân, trong trường có đa dạng các bộ môn năng khiếu để hướng trẻ theo và phát triển những năng lực vốn có của Đảng. Nền giáo Nhật đã được tập cho học sinh có bản
tính tự lập, biết cười nhiều hơn, biết cảm ơn khi nhận sự giúp đỡ và đặc biệt biết rèn luyện sức khỏe để trở nên mạnh mẽ, kiên cường hơn trong cuộc sống. Chúng ta thường chỉ thấy rằng Người Nhật rất giỏi, với hiệu quả công việc cao và ý chí tự lực, tự cường lớn. Tuy nhiên, rất ít người biết rằng ở Nhật, trẻ em được hưởng một nền giáo dục vô cùng đặc biệt, chính điều đó đã khiến các em học sinh được học bao điều bổ ích, và trở nên vững vàng với những kiến thức và kỹ năng sống được trang bị ngay từ nhỏ. Nuôi dưỡng cho trẻ em năng lực ứng phó với sự thay đổi của xã hội, hình thành một cơ sở vững mạnh để khuyến khích trẻ sáng tạo. Giáo dục hiện đại với mục tiêu tạo nên những con người trung thực, tự tin, tự trọng, có kỷ luật nội tâm, có khả năng suy nghĩ, làm việc độc lập và làm việc theo nhóm, có năng lực sáng tạo và đầy đủ phẩm chất để trở thành những công dân ưu tú, sinh viên đạt chuẩn Quốc tế, có năng lực và phẩm chất để trở thành những nhà doanh nghiệp, nhà khoa học và quản lý trong tương lai [5]..
Đức: Hệ thống giáo dục ở Đức là một hệ thống mở, học sinh có thể thay đổi loại hình đào tạo, chương trình học theo khả năng và nhu cầu của bản thân. Các học sinh được tham gia chương trình đào tạo kép, kết hợp giữa học kiến thức và làm việc thực hành tại các doanh nghiệp. Sau khi tốt nghiệp ra trường, sinh viên sẽ được trang bị đầy đủ cả kiển thức lẫn kỹ năng để tìm được một công việc tốt trong tương lai. Từ cấp Tiểu học đã nhấn mạnh đến vị trí của các kĩ năng cá biệt, trong đó có phát triển kĩ năng sáng tạo được coi trọng; Phát triển khả năng học độc lập, chủ động giải quyết các vấn đề của bản thân.
Năm 1977, “Hiệp hội Giáo dục trải nghiệm” (Association for Experiential Education - AEE) được thành lập, giáo dục trải nghiệm đã chính thức được thừa nhận bằng văn bản và được tuyên bố rộng rãi là cơ sở, điều kiện để trở thành xu hướng giáo dục hiện đại trên toàn thế giới...
Giáo dục trải nghiệm đã có một bước tiến mạnh mẽ hơn khi vào năm 2002, tại Hội nghị thượng đỉnh Liên hiệp quốc về phát triển bền vững, chương trình “Dạy và học vì một tương lai bền vững” được UNESCO thông qua, có học phần quan trọng về giáo dục trải nghiệm được giới thiệu, phổ biến và phát triển sâu rộng.
Ở một số nước phát triển hiện nay, trong nhà trường phổ thông người ta cũng chú ý nghiên cứu, vận dụng tổ chức hoạt động trải nghiệm nhằm giáo dục toàn diện cho học sinh ngay từ trong nhà trường. Hoạt động trải nghiệm được hầu hết các nước phát triển quan tâm, nhất là các nước tiếp cận chương trình giáo dục phổ thông theo
hướng phát triển năng lực; coi trọng giáo dục nhân văn, giáo dục sáng tạo, giáo dục phẩm chất và kĩ năng sống…
Kinh nghiệm thực tiễn về giáo dục trải nghiệm cho học sinh ở các nước phát triển và xu thế mới của các nước đang phát triển là cơ sở quan trọng trong nghiên cứu và vận dụng vào việc tổ chức hoạt động trải nghiệm cho học sinh phổ thông nước ta; trong đó có học sinh bán trú tại các trường THPT.
1.1.2. Những nghiên cứu ở Việt Nam
Những năm gần đây, Bộ Giáo dục đào tạo đã đưa nội dung giáo dục kỹ năng sống lồng ghép vào các môn học. Thực hiện theo chủ trương đó, các trường học cũng đã và đang ứng dụng phương pháp dạy học gắn trường học với thiên nhiên, các hoạt động vui chơi, trải nghiệm thông qua mô hình giáo dục trải nghiệm để phát triển kỹ năng sống cho học sinh tại nhà trường. Hoạt động trải nghiệm tạo cơ hội cho học sinh: huy động tổng hợp kiến thức, kĩ năng của các môn học và lĩnh vực giáo dục khác nhau để trải nghiệm thực tiễn đời sống gia đình, nhà trường và xã hội; tham gia vào tất cả các khâu của quá trình hoạt động, từ thiết kế hoạt động đến chuẩn bị, thực hiện và đánh giá kết quả hoạt động; trải nghiệm, bày tỏ quan điểm, ý tưởng sáng tạo, lựa chọn ý tưởng hoạt động; thể hiện và tự khẳng định bản thân, đánh giá và tự đánh giá kết quả hoạt động của bản thân, của nhóm và của các bạn... dưới sự hướng dẫn, tổ chức của nhà giáo dục, qua đó hình thành và phát triển những phẩm chất chủ yếu và năng lực cốt lõi được tuyên bố trong chương trình tổng thể và các năng lực đặc thù của Hoạt động trải nghiệm. Chương trình Hoạt động trải nghiệm luôn mang tính linh hoạt, mềm dẻo. Các cơ sở giáo dục có thể căn cứ vào bốn nội dung hoạt động chính là Hoạt động phát triển cá nhân, Hoạt động lao động, hoạt động xã hội và phục vụ cộng đồng, hoạt động giáo dục hướng nghiệp để thiết kế thành các chủ đề hoạt động phù hợp với nhu cầu, đặc điểm học sinh, điều kiện của nhà trường, địa phương. Tuy nhiên mô hình giáo dục trải nghiệm còn khá mới mẻ với các bậc phụ huynh, trong khi ngành giáo dục đã và đang tìm hiểu, đổi mới nhiều phương pháp dạy, phương pháp học tập cho thầy cô và các em học sinh.
Ở nước ta nhiều đề tài nghiên cứu về tổ chức hoạt động giáo dục của các tác giả như: Đặng Vũ Hoạt, Hà Nhật Thăng bàn về các loại hình hoạt động giáo dục và hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp của học sinh THCS; Nguyễn Kim Thoa bàn về hoạt động trải nghiệm, những nội dung, cách thức cho học sinh tham gia.
Nguyễn Thanh Bình (2008). Xây dựng và thực nghiệm một số chủ đề giáo dục kĩ năng sống cơ bản cho học sinh trung học phổ thông. Đây là một đề tài nghiên cứu cấp Bộ đã chỉ ra sự cần thiết phải tiến hành hoạt động thực nghiệp cho học sinh THPT [2].
Năm 2014, tác giả Nguyễn Thu Hoài, nghiên cứu về tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo giải pháp phát huy năng lực người học đã đề xuất quy trình tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo cho học sinh phổ thông. Đề tài đã chỉ ra thực trạng còn tồn tại [28].
Năm 2015, tác giả Bùi Tố Nhân, nghiên cứu về quản lý hoạt động trải nghiệm sáng tạo tại các trường THCS thuộc quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng [40].
Trần Thị Minh Huế (2009), nghiên cứu Giáo dục truyền thống văn hóa dân tộc cho sinh viên thông qua tổ chức hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, tác giả đề cao vai trò của các hoạt động trải nghiệm thực tiễn đối với giáo dục đạo đức, truyền thống dân tộc cho sinh viên [32].
Năm 2014, Đinh Thị Kim Thoa, nghiên cứu về tổ chức hoạt động giáo dục trong trường học theo định hướng phát triển năng lực của học sinh đã khai thác vai trò của hoạt động trải nghiệm và các biện pháp tăng cường hoạt động trải nghiệm cho học sinh trong các trường phổ thông. Đồng thời với tài liệu tập huấn kĩ năng xây dựng và tổ chức các hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong trường trung học - Chương trình phát triển giáo dục trung học - Bộ Giáo dục và đào tạo, tác giả Đinh Thị Kim Thoa cũng cho rằng [46]: chương trình hiện hành có hoạt động ngoài giờ lên lớp nhằm giúp học sinh củng cố kiến thức, kỹ năng thông qua các hoạt động rèn luyện, thực hành, vận dụng kiến thức. Nhưng do không bắt buộc nên có trường làm, có trường không làm. Hoạt động này chủ yếu ngoài lớp học nên phụ thuộc nhiều vào điều kiện mỗi trường, địa phương. Vì vậy ở chương trình mới, ban soạn thảo đưa hoạt động này vào nhóm bắt buộc có phân hóa. Theo đó, tất cả các nhà trường đều phải thực hiện. Hoạt động trải nghiệm, theo thiết kế của chương trình, sẽ sử dụng những thành tựu của các môn học cộng với yêu cầu xã hội để tạo thành chương trình hoạt động cho học sinh.
Nguyễn Thị Liên (2016), Tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong nhà trường phổ thông, NXB Giáo dục Việt Nam [35].
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu ở trên mới chỉ đề cập và nghiên cứu từng vấn đề giáo dục, từng mặt giáo dục. Chưa có một công trình nào nghiên cứu về quản lý hoạt động trải nghiệm nói chung cho cho học sinh bán trú tại các trường THPT vì vậy mà tác giả luận văn chọn đề tài để nghiên cứu.
1.2. Một số khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Quản lý
Xã hội loài người từ khi xuất hiện sự phân công lao động và nhà nước ra đời đã đã đặt ra nhiệm vụ quản lý xã hội theo những mục tiêu mà giai cấp cầm quyền đặt ra. Thực tế, bất kỳ ở đâu, lúc nào con người có nhu cầu kết hợp với nhau để đạt mục đích chung đều xuất hiện quản lý. Quá trình này nhằm đạt được những mục tiêu và yêu cầu nhất định dựa trên những quy luật khách quan. Xã hội càng phát triển, nhu cầu và chất lượng quản lý đòi hỏi ngày càng cao.
Quản lý bao gồm các yếu tố sau:
- Chủ thể quản lý là tác nhân tạo ra các tác động và đối tượng bị quản lý tiếp nhận trực tiếp các tác động của chủ thể quản lý và các khách thể khác chịu các tác động gián tiếp từ chủ thể quản lý. Tác động có thể liên tục nhiều lần.
- Muốn quản lý thành công, trước tiên cần phải xác định rõ chủ thể, đối tượng và khách thể quản lý. Điều này đòi hỏi phải biết định hướng đúng.
- Chủ thể quản lý phải thực hành việc tác động và phải biết tác động. Vì thế chủ thể phải hiểu đối tượng và điều khiển đối tượng một cách có hiệu quả.
- Chủ thể có thể là một người, một nhóm người; còn đối tượng có thể là con người (một hoặc nhiều người), giới vô sinh hoặc giới sinh vật.
Nguyễn Minh Đạo: "Quản lý là sự tác động chỉ huy, điều khiển, hướng dẫn các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người nhằm đạt tới mục tiêu đã đề ra" [21].
- Giáo trình Khoa học quản lý "Quản lý là việc đạt tới mục đích của tổ chức một cách có kết quả và hiệu quả thông qua quá trình lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra các nguồn lực của tổ chức" [33]..
Từ những quan niệm này cho thấy, quản lý là một hoạt động liên tục và cần thiết khi con người kết hợp với nhau trong tổ chức. Đó là quá trình tạo nên sức mạnh gắn liền các hoạt động của các cá nhân với nhau trong một tổ chức nhằm Quản lý hiểu theo nghĩa chung nhất: Quản lý là sự tác động có tổ chức, có định hướng của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả các tiềm lực, các cơ hội của hệ thống để đạt được mục tiêu đã đặt ra trong điều kiện biến đổi của môi trường.
1.2.2. Hoạt động, hoạt động trải nghiệm
a) Hoạt động
Hoạt động là quá trình tác động qua lại tích cực giữa con người với thế giới khách quan một cách có mục đích, mà qua đó mối quan hệ thực tiễn giữa con người với thế giới khách quan được thiết lập.Trong mối quan hệ đó có hai quá trình diễn ra
đồng thời và bổ sung cho nhau, thống nhất với nhau là quá trình đối tượng hoá và quá trình chủ thể hoá.
Quá trình đối tượng hóa là quá trình chủ thể chuyển năng lực của mình thành sản phẩm của hoạt động, hay nói khác đi tâm lý người được bộc lộ, được khách quan hóa trong quá trình làm ra sản phẩm.
Quá trình chủ thể hóa là quá trình chuyển từ phía khách thể vào bản thân chủ thể những quy luật, bản chất của thế giới để tạo nên tâm lý, ý thức nhân cách của bản thân bằng cách chiếm lĩnh thế giới. Như vậy, trong hoạt động con người vừa tạo ra sản phẩm về phía thế giới, vừa tạo ra tâm lý của mình, hay nói khác đi tâm lý, ý thức, nhân cách được bộc lộ và hình thành trong hoạt động.
Hoạt động được chia làm rất nhiều dạng cụ thể như: hoạt động lao động, hoạt động học tập, hoạt động giao tiếp…Tuy nhiên, nó đều bị chi phối bởi mục đích, nhu cầu của cả cá nhân và xã hội. Đồng thời qua đó sẽ bộc lộ các giá trị, điểm mạnh và điểm yếu của mỗi cá nhân.
Như vậy, hiểu hoạt động: là phương thức tồn tại của con người, là nhân tố quyết định trực tiếp sự hình thành và phát triển nhân cách. Hoạt động của con người là hoạt động có mục đích, mang tính xã hội, mang tính cộng đồng, được thực hiện bằng những thao tác nhất định với những công cụ nhất định.
b) Hoạt động trải nghiệm
Hoạt động trải nghiệm là hoạt động mà con người và xã hội loài người đã và đang thực hiện nhằm nâng cao nhận thức của bản thân, rút ra kinh nghiệm sống từ môi trường thực tiễn. Thông qua quá trình này sẽ đúc rút toàn bộ các hoạt động của con người ở mọi mặt, như một thể thống nhất giữa kiến thức, kỹ năng, tình cảm và ý chí. Đồng thời, chủ thể ý thức được và có cảm giác tiếp xúc trực tiếp với thực tế, cho dù đó là một thực tế bên ngoài của các đối tượng và tình huống mà thực tế đối tượng phải giải quyết.
Trải nghiệm trong giáo dục là một hình thức trau rồi tri thức, rèn luyện kỹ năng, khám phá cảm xúc và năng lực bản thân. Để từ đó, học sinh lĩnh hội được những kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm qua hoạt động giao tiếp với nhau, với người lớn, hay qua những tài liệu tham khảo, không được giáo viên giảng dạy trực tiếp trong nhà trường hoặc thông qua hoạt động thực tiễn.
Hoạt động trải nghiệm trong nhà trường là một phương pháp giáo dục hiệu quả giúp học sinh củng cố kiến thức, kỹ năng thông qua các hoạt động rèn luyện, thực
hành, vận dụng kiến thức giúp học sinh củng cố kiến thức, kỹ năng thông qua các hoạt động rèn luyện, thực hành, vận dụng kiến thức. Quá trình trải nghiệm sẽ mang lại lợi ích toàn diện cho người học như sau:
Thứ nhất: Thúc đẩy người học được sử dụng toàn diện: trí tuệ, cảm xúc, thể chất, kỹ năng và các quan hệ xã hội trong quá trình tham gia hoạt động. Yêu cầu của quá trình trải nghiệm đòi hỏi người học phải sáng tạo, tự chủ, tự ra quyết định và thỏa mãn với kết quả đạt được.Thông qua các hoạt động trải nghiệm sử dụng tư duy phê phán, giải quyết vấn đề và ra quyết định để cung cấp một mô-đun rèn luyện. Điều này đã trở thành một phương pháp nhằm thúc đẩy việc học.
Thứ hai: Mô phỏng được các tình huống thực tế đời sống tạo ra một số thách thức mà người tham gia cuối cùng sẽ phải đối mặt sau khi hoàn thành khóa học. Những sai lầm là chuyện tất yếu trong quá trình học. Việc mô phỏng giống như đưa trẻ em đến một sân chơi, cho chúng vui chơi, thử những điều mới và học hỏi, trong một môi trường được kiểm soát an toàn.
Thứ ba: Bằng cách vượt qua lý thuyết đến lĩnh vực “học thông qua thực hành”, người học được tham gia tích cực vào quá trình trải nghiệm: Đặt câu hỏi, tìm tòi, trải nghiệm, giải quyết vấn đề, tự chịu trách nhiệm. Người học được trải nghiệm thực hành những gì đã được dạy, điều này đóng một vai trò quan trọng trong việc ghi nhớ các khái niệm và ý tưởng.
Thứ tư: Có rất ít phương pháp học tập có thể tác động đáng kể đến tư duy của người học. Học tập trải nghiệm là một trong số đó. Chuyên gia quản lí Henry Mintzberg đã chỉ ra từ lâu rằng: “Tài lãnh đạo, giống như việc bơi, không thể học được bằng cách đọc về nó”. Thông qua hoạt động trải nghiệm người học sẽ tự rút ra những bài học kinh nghiệm cho chính bản thân mình. Đưa ra những nhận thức và phương pháp hành động cho chính mình trong thực tế ở những hoàn cảnh tương tự.
Thứ năm: Sự tập trung cao độ vào quá trình cộng tác và học tập lẫn nhau sẽ mang lại lợi ích cho người học vì nó làm tăng mức độ tương tác. Mặt khác, vì người tham gia ngay lập tức bắt tay vào hoạt động giải quyết vấn đề hoặc sự kiện, mức độ nắm bắt vấn đề sẽ cao hơn. Các mối quan hệ được hình thành và hoàn thiện: Người học với bản thân mình, người học với những người khác, và người học với thế giới xung quanh. Tăng mức độ tương tác và cọ sát vấn đề lý luận với thực tiễn để hình thành những phẩm chất cần có.
Thứ sáu: Học tập thông qua hoạt động trải nghiệm có tính cá nhân và hiệu quả trong tự nhiên, ảnh hưởng đến cả cảm giác và cảm xúc cũng như nâng cao kiến thức